NGUYỄN KHẮC PHÊ
Thoạt nghe tên sách “Người lính đào hoa” và đọc qua mấy chương đầu đã thấy rất nhiều mối tình đan chéo nhau giữa Kiêu, Thục Phương, Phương Dung... độc giả có cảm tưởng tác giả chỉ mượn người lính làm đề tài để tải một chuyện tình éo le mà cũng dễ tầm thường, cả mấy trang đầu của tiểu thuyết với nhân vật xuất xứ không có gì đặc sắc (giáo viên trường Thương nghiệp), với những sự việc có thể nói là vụn vặt, cũng dễ làm người xem bớt hứng thú đọc hết cuốn sách dày trên 400 trang chữ nhỏ. Nhưng cũng như người lính vào trận, cuộc chiến sinh tử và hào hùng cuốn hút chẳng khác gì một cơn bão, từng trang, từng chương cuốn sách mỗi lúc một có sức thuyết phục người đọc.
Cho dù là “người lính’’ Hoàng Kiêu có số đào hoa, có nhiều mối tình cuồng nhiệt và thật là “tiểu thuyết”, người đọc chăm chú trên suốt 400 trang sách lại không chỉ vì những mối tình hấp dẫn đó. Chính là số phận người lính trong cuộc thử thách khắc nghiệt trước lửa đạn, trước sự sống chết, cùng những mối quan hệ phức tạp với đồng đội - trong đó có Láng, “vị” chỉ huy hám gái, hèn nhát và hám công - với người yêu và cả với kẻ thù đã khiến người đọc xúc động. Điều cần nói thêm là nhờ chất liệu phong phú, không né tránh sự thật, tác giả đã tạo nên được trong lòng độc giả những xúc cảm có nhiều cung bậc : yêu thương, căm giận, đau đớn, hồi hộp, khoái trá... đều có đủ. Những trận đánh ngút trời bom đạn và đầy chết chóc giữa những vùng chiến trường ác liệt nhất (Đường 9 Nam Lào và mặt trận Căm-pu-chia) được miêu tả đậm nét trên nhiều trang sách chứng tỏ tác giả có ý định và đã thể hiện khá thành công một tác phẩm nghiêm chỉnh về đề tài chiến tranh, chứ không chỉ mượn người lính để gắn những chuyện tình ngang trái. Người đọc quan tâm đến số phận Kiêu cùng đồng đội của anh trước hết từ nỗi lo lắng, hồi hộp và khâm phục các anh theo mỗi bước hành quân, theo mỗi trận đánh sinh tử đối với kẻ thù. Được biết, Nguyễn Việt từng khoác áo lính, tuy anh sớm phải rời quân ngũ vì bệnh tim, nhưng những chiến sĩ trong tiểu đội của anh ra mặt trận hầu hết không trở về đã là nỗi ám ảnh bao năm thôi thúc anh thể hiện chân dung chân thật của người lính với tất cả những hy sinh to lớn và tình yêu cao đẹp của họ. Vì thế, có thể nói, anh đã viết cuốn sách với tất cả tâm huyết và tình cảm thiêng liêng như thực hiện di chúc của những người anh hùng đã khuất.
Có lẽ nhờ thế mà khi miêu tả rất nhiều mối tình trong “Người lính đào hoa”, Nguyễn Việt đã không chạy theo những chuyện giật gân, mùi mẫn nhằm chiều nịnh loại thị hiếu thấp hèn, tuy cuốn sách cũng có những trang miêu tả chuyện ân ái khá cuồng nhiệt; những mối tình của Hoàng Kiêu (và không chỉ của Kiêu, như mối tình của Hoài và Trang) được tác giả chú trọng miêu tả cốt để làm hiện rõ số phận và nhân cách người lính một cách toàn vẹn, để nhân vật hiện lên trang sách sinh động có đủ da thịt, chứ không là những bộ xương cứng ngắc chỉ biết tiến công và căm thù. Có những chi tiết thoạt tưởng như mâu thuẫn, phi lý, nhưng ngẫm kỹ lại là cách tác giả thể hiện chân thật con người. Đó là chuyện Kiêu trước ngày ra trận, khi ngủ cùng giường với người yêu mà vẫn tôn trọng, giữ nguyên sự trinh trắng của cô; nhưng ở chiến trường, qua hai ngày đêm đi cùng một cô giao liên, anh đã buông thả khi cô gái trao thân cho anh. Có thể sẽ có bạn đọc chưa thỏa mãn về tính cách của Phương : một người yêu đương nồng nhiệt sẵn sàng hiến thân cho người yêu khi ra trận, lại chung thủy chờ đợi anh trong mấy năm đi học ở nước ngoài; sau khi được gặp lại nhau, lại đã chung sống với nhau mấy ngày đêm, thì chỉ một thời gian ngắn xa cách, Phương đã chấp thuận lấy Dương Hòa, một bác sĩ mà cô khinh ghét để rồi bị hắn ghen tuông, dày vò đến nhục nhã! Chuyện Kiêu đột ngột lấy vợ rồi vợ tức thì rời bỏ anh có thể cũng không thuyết phục được tất cả bạn đọc. Tác giả chưa đủ sức hoặc chưa dành đủ trang lý giải những trạng huống tâm lý “bất thường” ấy, hay đó là sự cố ý để làm nổi bật chất “lính” và hoàn cảnh ngặt nghèo của chiến tranh? Cũng như tên cuốn sách và khá nhiều chuyện tình được miêu tả trong tiểu thuyết hình như không phải để nhằm câu khách, mà tác giả muốn để người đọc hiểu sâu thêm sự hy sinh cao cả của những người lính : cuộc đời thật đáng yêu và biết bao nhiêu cô gái xinh đẹp yêu chiều anh, nhưng vì ĐỘC LẬP VÀ TỰ DO của Tổ quốc, anh không tiếc tính mạng mình. Và chiến tranh, dù khốc liệt đến mấy, vẫn không thể giết chết được tình yêu! Cũng có thể nghĩ theo chiều ngược lại: những con người có phẩm cách như thế, cho dù không có số đào hoa, cũng có rất nhiều người yêu! Phải, chính là nhân cách cao đẹp đã khiến cho Kiêu có “sức hút” đối với rất nhiều cô gái. Chỉ cần so sánh thái độ Kiêu và bác sĩ Dương Hòa khi bất chợt thấy vết sẹo ẩn kín dưới mái tóc Lài đủ hiểu vì sao cô bác sĩ cứ mãi thầm yêu trộm nhớ Kiêu : một đằng, Kiêu đã đặt lên vết sẹo một cái hôn dịu dàng, đầy thương cảm của người lính; còn Hòa, dù muốn lợi dụng ve vãn Lài, nhưng những ngón tay anh khi quệt lên vết sẹo lại nhơn nhớt mồ hôi vì ghê sợ và thất vọng trước một sắc đẹp không toàn vẹn. Trước cả những con người đang tạm đứng về phía kẻ thù, như tay phị công Bằng và cô My Ly, lòng nhân ái bao dung cùng với sự dũng mãnh phi thường của Kiêu là “đôi cánh” nâng phẩm cách người lính lên cao, tạo cho Kiêu sức hấp dẫn hơn cả số “đào hoa” trời cho!
Tất nhiên, không phải sự dụng công nào của tác giả cũng mang lại hiệu quả. Như để nhấn mạnh thêm tinh thần can đảm trong chiến đấu của Kiêu, tác giả đã cố ý ban cho Kiêu tính sợ phải tiêm thuốc và sợ rắn! Các chi tiết này không được chuẩn bị, không có quá trình dễ trở nên giả tạo. Cũng có thể chưa thỏa mãn về kết cấu của tiểu thuyết ở phần cuối... Mặc dù vậy, “Người lính đào hoa” vẫn là một tác phẩm tốt viết về chiến tranh. Sau những tiểu thuyết điều tra hình sự xuất bản trong những năm 1988-1989 như “Đằng sau những hồ sơ chết”, “Gốc trầm hình sư tử”, “Con thú cùng đường”, “NGƯỜI LÍNH ĐÀO HOA” là một thành công mới đáng trân trọng của nhà báo - nhạc sĩ Nguyễn Việt.
Huế 9/1998
N.K.P
(TCSH118/12-1998)
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)