“Người lính đào hoa”, một tác phẩm tốt về đề tài chiến tranh

15:01 31/08/2023


NGUYỄN KHẮC PHÊ

Thoạt nghe tên sách “Người lính đào hoa” và đọc qua mấy chương đầu đã thấy rất nhiều mối tình đan chéo nhau giữa Kiêu, Thục Phương, Phương Dung... độc giả có cảm tưởng tác giả chỉ mượn người lính làm đề tài để tải một chuyện tình éo le mà cũng dễ tầm thường, cả mấy trang đầu của tiểu thuyết với nhân vật xuất xứ không có gì đặc sắc (giáo viên trường Thương nghiệp), với những sự việc có thể nói là vụn vặt, cũng dễ làm người xem bớt hứng thú đọc hết cuốn sách dày trên 400 trang chữ nhỏ. Nhưng cũng như người lính vào trận, cuộc chiến sinh tử và hào hùng cuốn hút chẳng khác gì một cơn bão, từng trang, từng chương cuốn sách mỗi lúc một có sức thuyết phục người đọc.

Cho dù là “người lính’’ Hoàng Kiêu có số đào hoa, có nhiều mối tình cuồng nhiệt và thật là “tiểu thuyết”, người đọc chăm chú trên suốt 400 trang sách lại không chỉ vì những mối tình hấp dẫn đó. Chính là số phận người lính trong cuộc thử thách khắc nghiệt trước lửa đạn, trước sự sống chết, cùng những mối quan hệ phức tạp với đồng đội - trong đó có Láng, “vị” chỉ huy hám gái, hèn nhát và hám công - với người yêu và cả với kẻ thù đã khiến người đọc xúc động. Điều cần nói thêm là nhờ chất liệu phong phú, không né tránh sự thật, tác giả đã tạo nên được trong lòng độc giả những xúc cảm có nhiều cung bậc : yêu thương, căm giận, đau đớn, hồi hộp, khoái trá... đều có đủ. Những trận đánh ngút trời bom đạn và đầy chết chóc giữa những vùng chiến trường ác liệt nhất (Đường 9 Nam Lào và mặt trận Căm-pu-chia) được miêu tả đậm nét trên nhiều trang sách chứng tỏ tác giả có ý định và đã thể hiện khá thành công một tác phẩm nghiêm chỉnh về đề tài chiến tranh, chứ không chỉ mượn người lính để gắn những chuyện tình ngang trái. Người đọc quan tâm đến số phận Kiêu cùng đồng đội của anh trước hết từ nỗi lo lắng, hồi hộp và khâm phục các anh theo mỗi bước hành quân, theo mỗi trận đánh sinh tử đối với kẻ thù. Được biết, Nguyễn Việt từng khoác áo lính, tuy anh sớm phải rời quân ngũ vì bệnh tim, nhưng những chiến sĩ trong tiểu đội của anh ra mặt trận hầu hết không trở về đã là nỗi ám ảnh bao năm thôi thúc anh thể hiện chân dung chân thật của người lính với tất cả những hy sinh to lớn và tình yêu cao đẹp của họ. Vì thế, có thể nói, anh đã viết cuốn sách với tất cả tâm huyết và tình cảm thiêng liêng như thực hiện di chúc của những người anh hùng đã khuất.

Có lẽ nhờ thế mà khi miêu tả rất nhiều mối tình trong “Người lính đào hoa”, Nguyễn Việt đã không chạy theo những chuyện giật gân, mùi mẫn nhằm chiều nịnh loại thị hiếu thấp hèn, tuy cuốn sách cũng có những trang miêu tả chuyện ân ái khá cuồng nhiệt; những mối tình của Hoàng Kiêu (và không chỉ của Kiêu, như mối tình của Hoài và Trang) được tác giả chú trọng miêu tả cốt để làm hiện rõ số phận và nhân cách người lính một cách toàn vẹn, để nhân vật hiện lên trang sách sinh động có đủ da thịt, chứ không là những bộ xương cứng ngắc chỉ biết tiến công và căm thù. Có những chi tiết thoạt tưởng như mâu thuẫn, phi lý, nhưng ngẫm kỹ lại là cách tác giả thể hiện chân thật con người. Đó là chuyện Kiêu trước ngày ra trận, khi ngủ cùng giường với người yêu mà vẫn tôn trọng, giữ nguyên sự trinh trắng của cô; nhưng ở chiến trường, qua hai ngày đêm đi cùng một cô giao liên, anh đã buông thả khi cô gái trao thân cho anh. Có thể sẽ có bạn đọc chưa thỏa mãn về tính cách của Phương : một người yêu đương nồng nhiệt sẵn sàng hiến thân cho người yêu khi ra trận, lại chung thủy chờ đợi anh trong mấy năm đi học ở nước ngoài; sau khi được gặp lại nhau, lại đã chung sống với nhau mấy ngày đêm, thì chỉ một thời gian ngắn xa cách, Phương đã chấp thuận lấy Dương Hòa, một bác sĩ mà cô khinh ghét để rồi bị hắn ghen tuông, dày vò đến nhục nhã! Chuyện Kiêu đột ngột lấy vợ rồi vợ tức thì rời bỏ anh có thể cũng không thuyết phục được tất cả bạn đọc. Tác giả chưa đủ sức hoặc chưa dành đủ trang lý giải những trạng huống tâm lý “bất thường” ấy, hay đó là sự cố ý để làm nổi bật chất “lính” và hoàn cảnh ngặt nghèo của chiến tranh? Cũng như tên cuốn sách và khá nhiều chuyện tình được miêu tả trong tiểu thuyết hình như không phải để nhằm câu khách, mà tác giả muốn để người đọc hiểu sâu thêm sự hy sinh cao cả của những người lính : cuộc đời thật đáng yêu và biết bao nhiêu cô gái xinh đẹp yêu chiều anh, nhưng vì ĐỘC LẬP VÀ TỰ DO của Tổ quốc, anh không tiếc tính mạng mình. Và chiến tranh, dù khốc liệt đến mấy, vẫn không thể giết chết được tình yêu! Cũng có thể nghĩ theo chiều ngược lại: những con người có phẩm cách như thế, cho dù không có số đào hoa, cũng có rất nhiều người yêu! Phải, chính là nhân cách cao đẹp đã khiến cho Kiêu có “sức hút” đối với rất nhiều cô gái. Chỉ cần so sánh thái độ Kiêu và bác sĩ Dương Hòa khi bất chợt thấy vết sẹo ẩn kín dưới mái tóc Lài đủ hiểu vì sao cô bác sĩ cứ mãi thầm yêu trộm nhớ Kiêu : một đằng, Kiêu đã đặt lên vết sẹo một cái hôn dịu dàng, đầy thương cảm của người lính; còn Hòa, dù muốn lợi dụng ve vãn Lài, nhưng những ngón tay anh khi quệt lên vết sẹo lại nhơn nhớt mồ hôi vì ghê sợ và thất vọng trước một sắc đẹp không toàn vẹn. Trước cả những con người đang tạm đứng về phía kẻ thù, như tay phị công Bằng và cô My Ly, lòng nhân ái bao dung cùng với sự dũng mãnh phi thường của Kiêu là “đôi cánh” nâng phẩm cách người lính lên cao, tạo cho Kiêu sức hấp dẫn hơn cả số “đào hoa” trời cho!

Tất nhiên, không phải sự dụng công nào của tác giả cũng mang lại hiệu quả. Như để nhấn mạnh thêm tinh thần can đảm trong chiến đấu của Kiêu, tác giả đã cố ý ban cho Kiêu tính sợ phải tiêm thuốc và sợ rắn! Các chi tiết này không được chuẩn bị, không có quá trình dễ trở nên giả tạo. Cũng có thể chưa thỏa mãn về kết cấu của tiểu thuyết ở phần cuối... Mặc dù vậy, “Người lính đào hoa” vẫn là một tác phẩm tốt viết về chiến tranh. Sau những tiểu thuyết điều tra hình sự xuất bản trong những năm 1988-1989 như “Đằng sau những hồ sơ chết”, “Gốc trầm hình sư tử”, “Con thú cùng đường”, “NGƯỜI LÍNH ĐÀO HOA” là một thành công mới đáng trân trọng của nhà báo - nhạc sĩ Nguyễn Việt.

Huế 9/1998
N.K.P
(TCSH118/12-1998)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN HỒNG MINH «Long thành cầm giả ca» là bài thơ mở đầu phần «Bắc hành tạp lục» trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1). Bài thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời «dâu bể» của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.

  • THĂNG LONG (Nhân đọc Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác của Khế Iêm, Nxb Văn học, 2011)

  • KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.

  • LÊ THĂNG LONG Sự ra đời của cấu trúc luận, giải cấu trúc đã kéo theo sự đổ vỡ của những quan niệm truyền thống mang tính phổ quát về nghệ thuật sáng tạo khởi thủy từ Platon.

  • TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)

  • THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.

  • THI THOẠI        Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).

  • MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.

  • HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…

  • NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn  360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.

  • Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.

  • LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)

  • KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.

  • …Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…

  • L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.

  • Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)

  • HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.