Phan Thắng thực hiện
PV: Trong giới nghiên cứu, người ta thường nói tới ông như một người chuyển từ phê bình văn học sang cái mà tôi tạm gọi là phê bình văn hóa.Ông nghĩ sao về những nhận xét loại đó.
Vương Trí Nhàn:Chính tôi cũng thấy như thế. Chỉ lưu ý thêm hai điểm. Một là chữ phê bình ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng. Phê bình tuy là bám theo thời sự nhưng phải đi tới những khái quát lý thuyết cơ bản. Phê bình viết ngay về các hiện tượng tươi sống nhưng lại phải dựa chắc vào nghiên cứu lâu dài. Và thứ nữa là tôi đang làm song song cả hai. Trong văn học tạm gọi là chuyên nghiệp. Còn trong văn hóa là “tự do” với nghĩa một công việc tự lựa chọn, tự đào tạo, tay trái, nghiệp dư.
PV: Nhìn vào tình hình phê bình văn học tôi thấy nó ngày càng khó. Đời sống văn học hiện ra vô cùng vô tận, phong phú và phức tạp, và có thể nói là “nhạy cảm” hơn, đòi hỏi người phê bình phải cố gắng nhiều mặt.
Vương Trí Nhàn:Ở chỗ này tôi xin phép không đồng ý với ông. Văn học hiện nay đơn điệu tẻ nhạt. Nó đang trong giai đoạn cuối của một nền văn học trung cổ theo nguyên tắc “văn dĩ tải đạo”. Trên nhiều phương diện, nó như còn tồn tại theo kiểu văn học dân gian. Mà lại là cái dân gian thoái hóa, nhập với văn hóa đại chúng của xã hội hiện đại. Gọi tên cái thực tế văn học ngổn ngang này không phải dễ, giới nghiên cứu còn đang bất lực trong việc lý giải nó.
Tôi cũng không đồng ý với ông ở chỗ người nghiên cứu văn học phải lảng tránh trước các vấn đề nhạy cảm. Không đồng ý ở hai khía cạnh:
1/Yêu cầu chủ yếu với người nghiên cứu là phải bảo đảm tính khách quan, tính khoa học. Chỉ có các quan chức, vì phải làm việc với bộ máy của mình, mới cần lưu ý tới tính nhạy cảm như cái nghĩa mà tất cả chúng ta hiện nay đều hiểu.
2/ Riêng ở ta thời gian gần đây, rất nhiều người lại hô lên rằng một tiêu chuẩn là trí thức là phải phản biện. Cho phép tôi nghĩ khác. Trí thức chỉ có trách nhiệm nghiên cứu thuần túy. Khi anh bước sang lĩnh vực phản biện tức anh đã đi vào hành động, hoặc nói theo ngôn ngữ thời nay, là anh trở thành một chiến sĩ đấu tranh cho một mục tiêu xã hội nào đó. Anh cần sự nhạy cảm để tự bảo vệ. Nhưng không vì thế mà coi nhạy cảm là yêu cầu bắt buộc với mọi trí thức nói chung.
PV: Một lý do khác khiến cho người viết phê bình văn học khó khăn: chúng ta đang phải đối diện với nhiều hệ thống lý thuyết văn học khác nhau. Cả giới sáng tác lẫn giới phê bình cùng băn khoăn khi chọn lựa nên bám/dựa vào lý thuyết nào cho phù hợp và đắc dụng.
Vương Trí Nhàn:Nhiều người trong giới nghiên cứu ở nước ta, những nhà hàn lâm nửa mùa đang ngợp trước lý luận và chỉ lo viết để minh họa cho lý luận mà họ học được ở các trường đại học ngoại quốc. Do xuất phát từ đời sống văn học nên tôi không bị ngợp. Tôi chỉ sử dụng các lý luận khi thấy cần và lúc nào cũng tiến hành song song. Trong khi nghiên cứu thực tiễn thấy cần thì học thêm lý luận; trong khi tìm hiểu lý luận thấy có cái gì thích hợp với Việt Nam liền lo áp dụng thử xem; áp dụng cái này nhưng vẫn tìm cách tiếp cận với cả những cái khác. Tôi luôn bị ám ảnh bởi câu nói đại ý “thế giới này quá phức tạp; phải dùng tới nhiều công cụ khác nhau mới hiểu được nó”.
PV: Ý ông muốn nói quá trình chuyển từ phê bình văn học sang phê bình văn hóa cũng là một bước phiêu lưu?
Vương Trí Nhàn: Quả có vậy. Trong một bài giới thiệu lý luận về tiểu thuyết của Trung quốc, nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu có giới thiệu khái niệm “dã sinh” vốn chỉ phổ biến ở Trung quốc. “Tiểu thuyết phải dã sinh”, tức tiểu thuyết – cũng như văn học nói chung -- phải là một thứ con hoang năm cha ba mẹ, không chịu ảnh hưởng của một lý luận nào duy nhất.
Thì cũng chính là do thói quen tạm gọi là dã sinh này mà khi tìm đọc văn học tôi xoay xở đủ cả văn học đương đại lẫn văn học tiền chiến, văn học cổ VN, rồi văn học Nga văn học Trung quốc sau 1976. Ngoài ra là các sách khoa học xã hội khác như lịch sử, dân tộc học, xã hội học…và tất nhiên là văn hóa trong sự phát triển lịch sử của nó.
Tôi lấy một ví dụ. Một hai chục năm gần đây, người ta chú ý rất nhiều tới Phan Khôi. Nhưng người ta xem xét ông, ca ngợi ông, định vị ông bằng những thước đo thường dùng với người viết văn, người nghiên cứu hôm nay. Với tôi muốn nghiên cứu một người viết uyên thâm lịch lãm như Phan Khôi mà không biết gì về văn hóa triết học Trung quốc cổ, rồi sự tiếp nhận phương Tây của nước Trung Hoa cuối thế kỷ XIX đầu XX, thì làm sao mà hiểu nổi cả thế hệ nhà nho cuối cùng như ông, từ đó phân tích mổ xẻ đánh giá ông chính xác.
Ý tôi muốn nói Phan Khôi là loại tác giả thích hợp nhất để chứng minh rằng phê bình văn học phải ngả sang phê bình văn hóa học. Nó là một trong những khuynh hướng vốn có của nghiên cứu văn học ở Đông cũng như ở Tây. Chỉ ở nước Nga của Stalin và ở nước Tầu của Mao Trạch Đông, mới có loại nhà nghiên cứu văn học chỉ biết mỗi văn học và chỉ xác lập mối quan hệ giữa văn học với tư tưởng mà thôi.
Trở lại trường hợp của bản thân. Từ chỗ dã sinh, như tôi vừa nói, chỉ cần “tìm hoa quá bước” một chút là tôi đã chuyển sang phê bình văn hóa rồi.
PV: Đấy là sự chuẩn bị trong đầu óc. Còn trong thực tế công việc?
Vương Trí Nhàn: Từ khoảng 1982, bên Thông tấn xã VN cho ra tờ Thể thao và văn hóa, với hai anh Hữu Vinh và Hà Vinh làm nòng cốt. Các anh ở đấy vốn rất thạo về văn hóa phương Tây. Khi rủ tôi làm, các anh cho phép tôi được viết về văn học theo cách của mình, bằng thứ ngôn ngữ báo chí hiện đại mà tôi học được qua các bài các anh dịch hoặc viết lại từ báo chí nước ngoài
Mấy năm đầu, làm với TT&VH tôi chỉ giữ trang văn học. Chợt xảy ra một sự kiện. Từ năm 1991, bên Viện khoa học xã hội được nhà nước giao cho làm một chương trình nghiên cứu về văn hóa, trong đó có đề tài Đề cương văn hóa Việt nam trong giai đoạn mới (KX 04-17).Nhà văn Tô Hoài được phân công quản đề tài này. Ông chọn Hoàng Ngọc Hiến, Ngọc Trai và tôi làm chân rết. Trong thời gian làm thư ký cho đề tài này, tôi có dịp đọc khá rộng từ lý luận văn hóa nói chung tới các công trình nghiên cứu về văn hóa VN trước đây. Bản thân tôi đã viết được một tiểu luận hơn trăm trang đánh máy mang tên Sơ bộ tìm hiểu di sản văn hóa Việt Nam (đã đưa lên trang blog của tôi).
Sẵn các tri thức tích lũy được từ thời gian làm việc trong nhóm của ông Tô Hoài, lại được các anh ở báo TT& VH cổ vũ, -- nói theo ngôn ngữ trong nghề là “có tờ báo trong tay” – tôi mạnh dạn xông ra viết các bài phiếm luận về văn hóa, ngoài TT&VH gửi đăng cả trên Tuổi trẻ, Nông thôn ngày nay , Người đại biểu nhân dân, Thời báo kinh tế Sài gòn … và sau này đã tập hợp lại một phần trong hai cuốn sáchNhân nào quả ấy (2002) và Những chấn thương tâm lý hiện đại(2009).
PV: Các bài viết trong mục Thói hư tật xấu người Việt cũng được hình thành trong thời gian này?
Đúng thế. Khi viết riêng về các nhà văn, tôi đã mang tiếng là chỉ thạo về việc nhìn ra thói xấu của con người. Khi nhìn chung ra cả xã hội, tôi cũng cứ chứng nào tật ấy. Thế thì làm sao mà dám đi vào nghiên cứu văn hóa như tôi định làm.
May quá một lần, tôi tìm được những gợi ý.
Trong khi ước ao đi tới một sự khái quát về văn hóa VN, ngoài việc đọc lý luận chay, tôi thường tìm đọc các cuốn lịch sử văn hóa nước ngoài, lấy đó là mẫu để học theo. Có một điều thú vị là mở đầu các cuốn lịch sử văn hóa ấy, các tác giả ngoại quốc thường dành khá nhiều tâm lực cho việc trình bày lý luận chung về văn hóa và ở đó tôi tìm được điểm tựa cho các lý lẽ mà tôi mới chỉ nhận biết theo cảm tính. Lần ấy tôi tìm được cuốn Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc Ngô Vĩnh Chính và Vương Miện Quý chủ biên, Lương Duy Thứ và các đồng sự VN lo việc dịch ra tiếng Việt , nxb Văn hóa—thông tin H.2004. Ở bộ ssch này, tôi đọc được cả một chương mang tên Tinh hoa và căn bã của văn hóa Trung quốc, trong đó nêu lên một khái quát: “Đương nhiên văn hóa Trung quốc có mặt ưu tú nhưng cũng có mặt lạc hậu thậm chí thủ cựu thối nát.” (Sđd tr 22). Trong phần viết về ảnh hưởng của triết lý tới dân tình, phong tục, các tác giả này có đoạn viết liên quan tới toàn bộ tính cách dân tộc Trung Hoa: Tinh thần nhân văn thành thục quá sớm của triết học cổ đại Trung Quốc, sự lan tràn của luân lý đạo đức, cách nhấn mạnh quá đáng tới sự hài hòa và trung dung, tất cả những đặc điểm đó cũng đem lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho dân tộc ví như thiếu tinh thần mạo hiểm, vượt khó, năng lực tự lập tự giải quyết mọi việc thấp kém, tập quán tư duy thiên về hình như thượng [một thuật ngữ nay ít dùng; thời trước nó được xem là tương đương với khái niệm siêu hình học], các quan niệm truyền thống mang tính tuần hoàn phong bế… Rồi sự hình thành tính cách dân tộc nội khuynh, bảo thủ thuận tòng, không tranh đấu…Những điều đó cần thẳng thắn nhìn nhận (sđd, tr 83).
Từ lúc nhồi được cái thứ đó vào đầu, tôi thêm cả quyết dành hẳn một phần công việc cho mục thói hư tật xấu.
PV: Tức là ông đã được giải phóng về mặt tư tưởng.
Vương Trí Nhàn:Tôi cũng định nói như vậy. Nên nhớ là tôi đi vào con đường nghiên cứu văn hóa một cách nghiệp dư. Phần lớn các nhà nghiên cứu hiện thời thiên về tìm cách nói một chiều, nói tốt, nói theo hướng ca ngợi hết lời đối với văn hóa VN. Hóa ra họ chỉ minh họa các ý tưởng mà người ta đặt hàng cho họ. Do không bị bó buộc vào một nhiệm vụ nào được giao – đúng ra là không kiếm sống, kiếm danh vị và lợi lộc từ công tác nghiên cứu, tôi cảm thấy mình có được chút tự do tối thiểu. Nhưng tôi vẫn bị cái lý luận chính thống về văn hóa đương thời chi phối. Nhờ nhìn rộng ra các nền văn hóa khác và tìm được những cơ sở lý luận khác, tôi mới thực sự tự do với nghĩa đi trên một con đường riêng tôi thấy đúng đắn nhất.
PV: Tôi nhớ lúc đầu ông đã bị ăn đòn vì loạt bài thói hư tật xấu này.
Vương Trí Nhàn:Về chuyện bị đám đông ném đá thì không nói là gì. Tôi còn bị cả bạn bè chê bai, hiềm khích, bác bỏ.
Tôi nhớ khoảng những năm 90, đọc các phác thảo của một người nay trở thành giáo sư đầu ngành của giới nghiên cứu văn hóa, tôi có bảo với ông mấy ý:
* chỗ kiểm tra để biết một hướng nghiên cứu có đúng hay không là đối chiếu nó với thực tiễn.
* bởi lẽ văn hóa là cái làm nên nội lực của một cộng đồng, cho nên, với bức tranh văn hóa như anh miêu tả, thì tôi nghĩ là dân VN sẽ không có một cuộc sống khó khăn bế tắc như hiện nay.
* Anh cho phép tôi đi tới cùng của sự suy nghĩ nhá. Với một dân tình như hiện nay bức tranh văn hóa mà anh vẽ ra thậm chí có tác dụng ru ngủ họ, làm hại họ. Nghĩa là nguy hiểm cơ đấy.
Ông ta giận tôi lắm. Sau khi gọi điện xỉ vả tôi là dân nghiên cứu nghiệp dư mà đã ti toe, không đọc nhiều sách bằng ông nên không thể nói liều …, không bao giờ ông muốn nhìn mặt tôi nữa.
PV: Theo ông, cái đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ của phê bình văn hóa nên xác định như thế nào?
Vương Trí Nhàn:Hồi đầu cách mạng ta có Hội văn hóa Cứu quốc, tập hợp mọi trí thức khoa học xã hội và tự nhiên trong đó có các nhà văn nghệ. Tới 1948, Hội này còn mở Đại hội lần II. Nhưng sau đó Hội Văn hóa này -- nghe nói là thuộc quyền ông Trần Huy Liệu - gần như tự giải tán. Trong bàn tay lèo lái của ông Tố Hữu, văn học và các ngành nghệ thuật khác tách ra thành Hội Văn nghệ VN sau đó thành các Hội riêng. Trên thực tế, văn học bị tách ra khỏi khối văn hóa mà đặt trọng tâm vào việc làm công tác tư tưởng. Lâu dần, chất tư tưởng át đi cả văn hóa. Mà việc nghiên cứu tổng quát về văn hóa sau này có được tổ chức thì cũng quá yếu ớt.
Thành ra người nghiên cứu văn hóa hiện nay như đứng trước một cánh đồng hoang. Tôi chỉ là một cá nhân đơn thương độc mã trên đường, không chịu trách nhiệm với ai, vả chăng cũng đang mầy mò, nên chẳng biết nói gì ngay về những cái gọi là đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ mà ở trên ông đặt câu hỏi. Chỉ biết rằng từ lịch sử văn hóa tới mối quan hệ văn hóa VN và nước ngoài, từ phong tục tập quán văn chương nghệ thuật tới các vấn đề chính trị xã hội …chả cái gì mà tôi thấy không cần thiết cả. Chắc là ông không thể ngờ là trong nhiều cuốn nghiên cứu văn hóa từng quốc gia, từng cộng đồng riêng, tôi thấy người ta đều dành rất nhiều giấy mực cho việc tổ chức xã hội, việc quản lý quốc gia…Làm sao mà bây giờ tôi lại dám đề nghị rằng nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu văn hóa VN cũng bao gồm cả những việc đó. Có đề nghị cũng không ai làm. Vì có ai được chuẩn bị làm việc theo quan niệm đó bao giờ.
PV: Với cách xác định đó, nhìn lại, chắc là ông thấy hoạt động phê bình văn hóa lâu nay có nhiều chỗ bất cập ?
Vương Trí Nhàn:Bởi nó đã giống Nga, giống Tầu thời trước, mà lại làm kém đi và bây giờ bên Nga, bên Tầu người ta cũng làm khác rồi nên rút lại, thấy nó chẳng giống ai cả.
PV: Thiếu sót lớn nhất của nó là gì?
Vương Trí Nhàn:Là không chịu làm cái việc mà xã hội cần là giúp vào việc tự nhận thức của cộng đồng, mà lại loanh quanh làm những việc vá víu lặt vặt.
PV: Một công việc như phê bình văn hóa tất nhiên phải dựa trên các cơ sở lý thuyết, tức là nó phải có cơ sở lý luận của nó. Theo chỗ chúng tôi biết thì trên thế giới, văn hóa học đã hình thành và phát triển hơn 100 năm rồi với nhiều trường phái khác nhau, ở ta chậm hơn nhiều nhưng cũng đã có từ nhiều chục năm nay. Và chúng ta cũng đã tiếp thu nhiều lý thuyết văn hóa khác nhau từ bên ngoài vào. Các lý thuyết khác nhau đã làm nền tảng cho hoạt động phê bình văn hóa. Từ kinh nghiệm cá nhân, theo ông, tại thời điểm hiện tại, ở nước ta, công việc phê bình văn hóa nên có sự lựa chọn lý thuyết như thế nào để có thể nói là khả dĩ phù hợp nhất?
Vương Trí Nhàn:Đầu tháng 2-2015, chính tạp chí Văn hóa Nghệ An đã in bài của Lê Văn Hảo liên quan tới vấn đề này. Nhưng trong bài đó ông Hảo dùng chữ văn hóa học với nghĩa một ngành nghiên cứu. Có một nền văn hóa học Việt Nam tức là có một ngành nghiên cứu về văn hóa Việt Nam.
Còn trong câu hỏi vừa rồi có phải ông hiểu văn hóa học tức là các lý thuyết về văn hóa ?
PV: Tôi tưởng ý mình nói cũng đã rõ.
Nếu thế thì cái thời gian mà ông dùng để xem xét việc hình thành các lý luận đó, lại chẳng có ý nghĩa gì hết. Mười năm cho đến ba bốn chục năm nữa là quá ngắn ngủi với một xã hội vốn trì trệ và ngành nghiên cứu khoa học xã hội thì lại cổ lỗ không biết xếp vào ngạch bậc nào của thế giới.
Trên tôi đã trình bày, ở nước Nga xô viết cũng như ở Trung Hoa lục địa, văn hóa đều bị gộp vào công tác tư tưởng, lúc đó ở họ quan niệm sử học thì cổ lỗ mà nhìn chung gần như không có xã hội học văn hóa học gì hết. Sau khi có những thay đổi, các nhà nghiên cứu cho du nhập thẳng những quan điểm lý thuyết của Anh- Mỹ, nơi mà lý thuyết về văn hóa phát triển đến những đỉnh cao có ảnh hưởng khắp thế giới.
Tôi nói điều này là dựa trên hai cuốn sách đang có trong tay
1/Trung Hoa văn hóa sử của Phùng Thiên Du, Hà Hiểu Minh, Chu Tích Minh hai tập thượng hạ Thượng hải nhân dân xuất bản xã, 2005.
2/ Văn hóa học thế kỷ XX. Bách khoa toàn thư. Nxb Sách tổng hợp thuộc quỹ hỗ trợ khoa học và văn hóa Sankt- Peterburg 1996.
Nga và Trung quốc đã vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta cũng chẳng có sự lựa chọn nào khác.
PV: Tính cấp thiết của việc du nhập lý luận văn hóa phương Tây là gì?
Vương Trí Nhàn:Là ở đó, tất cả các thuật ngữ khái niệm đều có một ý nghĩa khác so với cách hiểu của chúng ta hôm nay. Đó là một. Thứ hai, là chỉ với những định hướng của nó, ta mới gỡ ra được những vướng mắc cơ bản đang níu kéo ta lại. Ví dụ, các nhà nghiên cứu văn hóa hiện nay quá tin tưởng vào thuyết tương đối văn hóa. Theo thuyết này, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng, các nền văn hóa này đều bình đẳng với nhau. Ta dùng lý luận này để đề cao tính độc đáo của văn hóa ta, từ đó chấp nhận cả những cổ hủ lạc hậu trong văn hóa cổ truyền. Trong khi đó, bên cạnh lý thuyết tương đối, người ta còn nói tới sự tiến hóa về văn hóa. Mỗi nền văn hóa phải tiến triển theo những quy luật chung. Quá trình tự hoàn thiện một nền văn hóa đi kèm với sự cộng sinh tiếp biến các nền văn hóa ngoại lai, nhiều khi chính yếu tố ngoại lai lại có ý nghĩa quyết định chứ không phải yếu tố bản địa. Nếu đi theo hướng này ta sẽ hiểu hơn và làm tốt hơn công việc tự đánh giá gia tài quá khứ và cũng như mang lại cho sự hội nhập quốc tế những kết quả thực sự.
Đây tôi mới nói về một ví dụ chứng minh cho cái mức độ cấp thiết của việc du nhập lý thuyết phương Tây và lại nói rất thô thiển. Tôi sẽ đề cập vấn đề này trong một dịp khác.
PV: Trở lại với các công việc cụ thể , theo ông, hiện tại, ở nước ta, hoạt động phê bình văn hóa hoặc nghiên cứu văn hóa nói chung nên tập trung vào những vấn đề nào, những mặt nào, lĩnh vực nào ?
Vương Trí Nhàn:Tôi hơi ngại dùng hai chữ tập trung.Tôi muốn nói những việc không thể bỏ qua. Trong nghiên cứu có những công việc mà thiếu nó thì mọi việc khác đều vô nghĩa. Ngoài việc du nhập lý luận, nay cần sớm có những người tách ra khỏi cái ngổn ngang trước mắt để đi vào lo tìm hiểu lịch sử văn hóa. Mà khi đi vào lịch sử, thì nhớ phải có một quan niệm về văn hóa rộng rãi, trong đó đặt mỗi nền văn hóa trong cái văn mạch chung mà người ta gọi là địa văn hóa. Riêng tôi lúc này đây tôi nghĩ rằng nếu có thời gian thì nhất thiết phải để công sức vào tìm hiểu lịch sử quan hệ văn hóa VN với các nền văn hóa khác như văn hóa Trung Hoa, văn hóa phương Tây.
Nhân đây, tôi có một đề nghị với cả những người nghiên cứu văn hóa lẫn những người quản lý việc này nói chung.
PV: Điều gì vậy?
Vương Trí Nhàn:Hiện nay các học giả quốc tế đang rất quan tâm đến Việt Nam và họ đang có nhiều phát hiện. Nhưng tất cả những thành tựu của họ lại xa lạ với tất cả các giới khoa học xã hội nước ta. Về phần mình, sau khi nói rằng VN có một nền văn hóa vô cùng rực rỡ không kém một ai, các nhà nghiên cứu VN có thói quen cho rằng chỉ ta là mới hiểu được ta. Với các thành tựu của người nước ngoài, ta chỉ sử dụng một vài tên tuổi làm nền và giúp vào việc minh họa cho quan niệm của người trong nước.
Còn sau khoảng trên hai mươi năm đi vào tìm hiểu văn hóa VN, kinh nghiệm lớn nhất của tôi lại là hoàn toàn ngược lại.
Tôi thiết tha mong các đồng nghiệp đang đi vào nghiên cứu văn hóa nhất là các bạn trẻ học lấy ngoại ngữ, trực tiếp đọc vào các tài liệu nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam của người nước ngoài, từ đó các bạn sẽ tìm ra con đường đi của mình, phương pháp thích hợp với mình.
Sở dĩ tôi muốn nói điều này cả với các nhà quản lý công tác nghiên cứu bởi lẽ sau. Các cán bộ trẻ không thể làm việc một cách nghiệp dư tài tử như tôi. Họ phải gắn bó với những yêu cầu, những đơn đặt hàng của nhà nước. Để lập danh. Mà cũng để kiếm sống. Nếu trong các bài giảng trong nhà trường, các thầy giáo không sử dụng các tài liệu này; nếu trong các công trình nghiên cứu ban đầu là các luận án thạc sĩ, tiến sĩ, không có yêu cầu bắt buộc phải tham khảo các tài liệu này, thì các nhà nghiên cứu trẻ sẽ không bao giờ tự động tìm đọc cả. Nếu như chỉ thỉnh thoảng báo chí có được một vài bài viết ngả sang cái hướng này thì nhanh chóng chúng cũng bị quên lãng.
PV: Cảm ơn ông.
Nguồn: VHNA
LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.
Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.
ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH Phóng sự điều tra
THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.
Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.
Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.
Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.
TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.
AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.
Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)
HOÀNG NGỌC HIẾN (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.
THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.
HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.
LÊ ĐẠT Đường bụi trang lịch cũ ếp ếp đàn thời gian L.Đ
HOÀNG NGỌC HIẾN (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).
VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.