“Nghệ nhân và Margarita” một tác phẩm vượt thời gian

10:01 04/11/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

Tôi đọc lần đầu tác phẩm lớn này từ mười mấy năm trước(1) (cùng với tiểu thuyết “Trái tim chó” của cùng tác giả), câu chuyện cụ thể đã quên, nhưng ấn tượng bàng hoàng sau khi gấp sách lại vẫn rõ nét đến mức, trong tham luận tại Hội nghị phê bình lý luận (lần 2) tại Đồ Sơn, tôi đã đưa “NNVM” dẫn chứng cho lập luận”...bất cứ “chủ nghĩa” nào cũng không nên tôn thành ngọn cờ, thành “phương pháp” buộc các văn nghệ sĩ phải theo. Nói cách khác, trong văn chương, không có chuyện “chủ nghĩa” nào hết! Trước trang giấy trắng (hay trước màn hình vi tính) nhà văn không vướng bận gì đến các “chủ nghĩa” đã (hoặc sẽ) được đúc kết thành “giáo điều”(2). Quả là lần này, đọc lại “NNVM” vừa được tái bản nhân kỷ niệm 115 sinh Bulgacov, tôi bắt gặp mấy dòng của nhà thơ Xô viết K.Simonov, tác giả bài “Đợi anh về” nổi tiếng: “Bulgacov có ba tài năng cùng song hành suốt đời tranh đoạt nhau vị trí số một: đó là tài năng của nhà văn trào phúng, tài năng của nhà văn giả tưởng và tài năng của nhà văn hiện thực.” Và chính nhờ không tự trói mình vào “chủ nghĩa hiện thực XHCN” đang thịnh hành ở Liên Xô hồi đó, nên mới có tuyệt tác “NNVM”. (Có phải vì thế mà chưa có nhà phê bình Việt nào “đụng” đến “NNVM”?)

Trớ trêu thay là chính vì vậy mà cuộc đời tác giả (1891-1940) cũng như nhiều tác phẩm của ông đã gặp vô vàn gian truân, mặc dù từ năm 1925, khi phần đầu tiểu thuyết “Bạch vệ” của ông ra mắt, nhà thơ M.Volosin đã đánh giá: “...Đây là một tác phẩm rất lớn và độc đáo; với tư cách là tác phẩm trình làng, chỉ có thể so sánh nó với sự ra mắt của Dostoevski và Tolstoi...” Tác phẩm này lập tức được ông chuyển thành kịch, đích thân Stalin xem 15 lần. Tuy vậy, từ năm 1929, sau ý kiến Stalin cho rằng vở kịch “Chạy trốn” của ông là một hiện tượng chống Xô Viểt, trên báo chí có đến 298 bài buộc tội ông bôi nhọ cách mạng! Hầu hết các vở kịch và sách của ông bị cấm; ông xin làm người gác cổng cũng không ai dám nhận! Thật may là ông đã không tự sát như các tài năng hồi đó như nhà thơ Maiakovxki, nhà văn Fadeev... vì 4 ngày sau khi Maiacovxki bắn vào đầu tự tử (ngày 18/4/1930), đích thân Stalin gọi điện cho Bulgacov hứa giúp đỡ... và ông đã vứt khẩu súng đã nạp đạn sẵn...

Mặc dù suốt từ đó cho mãi đến gần một phần tư thế kỷ sau khi ông mất, tác phẩm của Bulgacov không được in dòng nào, nhưng ông đã không buông bút. Nhờ đó, mới có “NNVM”, một tác phẩm đỉnh cao của ông và của văn học Nga thế kỷ 20, được dịch in và dựng thành phim, kịch ở nhiều nước trên thế giới. Và không thể kể hết những công trình nghiên cứu về tác phẩm đặc biệt này.

Bulgacov viết “NNVM” trong 12 năm (1928-1940) với cái tên dự định là “Tiểu thuyết về quỷ sứ”, từng bị xé, bị đốt, viết đi viết lại 7 lần! Một cuốn sách không dễ đọc, nhưng lại có sức cuốn hút và ám ảnh kỳ lạ. Không dễ đọc, trước hết vì độ dày của nó (gần 800 trang khổ lớn), vì hệ thống nhân vật đông đảo (506 nhân vật - 156 có tên và 249 vô danh), nhưng chủ yếu vì nó không tầm thường, không chỉ là kiểu “tiểu thuyết trong tiểu thuyết” (“2 trong 1”) mà nhân vật, sự kiện của hai tiểu thuyết cách nhau đến... 1900 năm, lại thật-hư lẫn lộn... Tuy vậy, nó vẫn cuốn hút vì cách viết mới lạ, vì độc giả như được sống, được bay lượn trong một thế giới khác - với cách “phù phép” của nhà hắc ảo thuật Voland từ nước ngoài đến, các nhân vật có thể `tàng hình, hoá thân, bay khắp nơi, trò chuyện với người đã chết... Điều thú vị là nhờ sống trong “thế giới khác”, chúng ta có cơ hội được thấy rõ chân tướng của cuộc sống thật hôm nay (trong sách là hiện thực xã hội ở thành phố Moskva những năm 20-30 của thế kỷ trước, khi Liên Xô thực hiện chính sách “kinh tế mới”; cũng gần giống hoàn cảnh Việt Nam thời kỳ đầu”Đổi Mới”). Cuộc sống sau bao năm tù hãm vừa được “giải phóng” đã bị bóc trần với đủ trò lố lăng bi-hài. Ví như cảnh đoàn người rồng rắn xếp hàng mua vé trước Nhà hát Tạp kỹ vì nghe đồn đêm qua cả ngàn con người đến xem đã tha hồ nhặt các tờ bạc 10 rúp (đồng tiền Liên Xô), còn quý bà quý cô thì chen nhau lột áo xống cũ để đổi lấy những bộ cánh theo “mốt” mới, nhưng thực ra, do Voland phù phép, khi chị em ta ra khỏi nhà hát thì trên mình chỉ còn đồ lót và hôm sau những tờ 10 rúp đã biến thành giấy lộn. Rồi cảnh cả đoàn người xếp hàng để xin căn hộ của Berlioz, khi nghe tin ông vừa bị xe điện chẹt chết. (Ông là “Chủ tịch Hội Nhà văn Moskva, Tổng biên tập một tờ tạp chí lớn, đọc nhiều biết rộng, vẻ ngoài hiền lành, lịch sự, dưới ngòi bút của Bulgacov, ông ta hiện lên thành một hiện tượng xã hội đáng sợ. Với tư cách là người “lãnh đạo” văn học, chính ông ta đã góp phần biến văn học thành thứ nghệ thuật khẩu hiệu thô thiển kiểu thơ Riukhin, đã dung túng khuyến khích các nhà phê bình đồ tể kiểu Latunski...” - Trích từ bài của Đoàn Tử Huyến) ; rồi các vị chức sắc ăn hối lộ, hám đô-la, ngoại tình vụng trộm... dần lộ mặt...

Tiểu thuyết “NNVM” hấp dẫn, giàu tính trí tuệ còn vì đề tài mà “Nghệ nhân” (nhân vật chính của “NNVM” và là “cái tôi thứ hai” của tác giả) chọn để viết cuốn tiểu thuyết chính là câu chuyện đã xảy ra 1900 năm trước với hai nhân vật chính là quan tổng trấn Ponti Pilat và Christ Giesu. Cuốn tiểu thuyết bị những tên Giuda “hiện đại” xúc xiểm, tố cáo, không ai dám in, tác giả bị đưa vào bệnh viện tâm thần sau khi đã cho bản thảo vào lửa. Thật may là tình yêu vĩ đại của Margarita đã cứu được bản thảo và giải thoát “Nghệ nhân” cuộc sống bế tắc...
Đã có nhiều tác phẩm văn học dựa vào các sự kiện trong Kinh Thánh, nhưng Bulgacov chỉ tập trung xoay quanh tâm trạng của Pilat trước và sau khi chàng trai quê ở Nazaret bị hành hình trên Núi Trọc (còn gọi là “đồi Sọ”). Quan tổng trấn tuy có thiện cảm với “nhà triết học lang thang rách rưới”, từng muốn cứu chàng khỏi tội chết (bằng cách gợi ý cho chàng chối bỏ việc tên Giuda tố cáo rằng chàng đã nói những lời xúc phạm đến Hoàng Đế...), nhưng rồi vẫn tuyên án tử hình và sau đó thì ân hận. Nhân vật Pilat hèn nhát không dám từ bỏ danh vọng, bổng lộc để thực hiện thiện chí của mình cứu người vô tội vì dù sao y cũng là vị quan của Hoàng Đế để rồi lương tâm cắn rứt cho mãi...1900 năm sau (cảnh gặp lại Chúa Giesu ở cuối tiểu thuyết) cũng như hình ảnh kẻ từ tù không thể nói dối để giữ mạng sống (chàng đã đáp lại “gợi ý” của quan tổng trấn: “Nói sự thật dễ dàng và dễ chịu hơn...”) và việc anh nhường những giọt nước lúc sắp chết khát cho tên tội phạm bên cạnh trên Núi Trọc có ý nghĩa đến muôn đời vì nó tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giữa THIỆN và ÁC của nhân loại...

Giới thiệu Bulgacov và NNVM, dịch giả Đoàn Tử Huyến đã viết:
“Hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử. NNVM là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của Bulgacov, một trong những đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ Nga... Đây là công trình dịch thuật lớn nhất, công phu và tâm đắc nhất của tôi...
...Bi kịch của Nghệ Nhân là anh không được người đương thời hiểu và đánh giá đúng. Nó cũng là bi kịch của đời riêng Bulgakov và nhiều thiên tài khác. Nhưng ở đây có điểm khác biệt giữa cuộc đời Nghệ Nhân và đời thực của nhà văn: Bulgacov đã đấu tranh quyết liệt cho số phận của mình, còn Nghệ Nhân thì không. Có lẽ điều khác biệt này thể hiện lập trường của Bulgacov trong nghệ thuật. Về điều này một nhà nghiên cứu Bulgacov viết: “Nghệ Nhân không phải là chiến sĩ. Nghệ Nhân là nghệ sĩ. Mỗi người cần phải là chính mình. Và Nghệ Nhân, hơn bất kì một ai khác, đã sống đúng là mình -là hiện thân vừa của sức mạnh vô biên, vừa của sự yếu đuối vô bờ của sự sáng tạo.

Tất nhiên, mỗi nhà văn, như bất kì một nghệ sĩ nào, cũng mong muốn thành đạt. Nhưng một nhà văn lớn không chỉ sáng tác vì sự thành đạt. Bởi vì ý nghĩa của sự sáng tạo dù sao cũng không ở sự thành đạt, mà là ở trong một cái gì khác. Mục đích của sự sáng tạo là sáng tạo, và sự đánh giá tối cao đối với sự sáng tạo là sự tự đánh giá của chính bản thân người nghệ sĩ. Và nghĩa vụ của nhà văn, nói thẳng ra, kết thúc khi tác phẩm của anh ta kết thúc. Cuộc đấu tranh vì sự công nhận đã là một cốt truyện khác, một chủ đề khác, của tác giả và cuốn tiểu thuyết khác... Có lẽ chính vì vậy mà Bulgacov đã chọn cho Nghệ Nhân - mà cũng  chính là chọn cho mình - phần thưởng sau khi chết là sự yên tĩnh, phần thưởng dành cho những tâm hồn mệt mỏi, chịu đau khổ nhưng lương tâm trong sạch và thanh thản...”

Chính vì thế, một nhà văn nổi tiếng người Gruzia đã đánh giá Bulgacov “đã là người đương thời của cha ông chúng ta, đang là người đương thời với chúng ta và sẽ là người đương thời của con cháu chúng ta” - nói một cách khác: NNVM là một tác phẩm vượt qua thử thách của thời gian, một tác phẩm “trường Xuân bất lão”.
                                                N.K.P

(nguồn: TCSH số 216 - 02 - 2007)

 



---------                                                                                                                   
(1) Theo bản in của NXB Cầu Vồng & NXB Tác phẩm mới, năm 1989.
(2) Xem toàn văn trong tạp chí “Sông Hương” số 11/2006. Xin nhắc lại rằng từ năm 1939, trên báo “Dân tiến”, chính nhà nghiên cứu Mác-xít Hải Triều đã viết những câu tương tự: “Bao giờ và ở chỗ nào cũng thế, nhà văn cần phải có tự do mới có thể sáng tạo được những công trình bất hủ. Gạch ra một con đường buộc họ phải theo là một sự điên rồ...”

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.