TRẦN THÙY MAI
Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!
Hà nhỏ hơn tôi đến 15 tuổi, cách gần một thế hệ, mà sao lại có những kỷ niệm giống nhau quá. Như vậy, chắc cũng sẽ nhiều bạn đọc tìm thấy trong tập văn này những ấn tượng gần gũi, thân thương.
![]() |
Như là hình ảnh “hoa “thầu đâu”, mùa nhãn lồng, hay những chiếc vỏ ve sót lại trên gốc cây cổ thụ đầu hè. Hay như kỷ niệm về ngày tết, tưởng chừng “không giống ai” mà chắc lại giống rất nhiều em bé ngày ấy, vì... tôi cũng đã từng như thế: “…những năm nhỏ tuổi, mạ may cho bộ đồ mới và đôi dép mới, tôi đã mặc thử áo quần và đi dép mới ngay trên giường, nhất quyết không xuống đất, chỉ đi vài bước rồi gói tất cả lại, chờ đúng sáng Mồng Một Tết…”. Cũng rất quen, khi Hà tả cái cảm giác ước ao, thèm khát nhìn theo trẻ hàng xóm chơi đèn lồng Trung Thu, khi Hà kể những viễn tưởng mênh mang trong tâm hồn cô bé ngây thơ tha thẩn bên gốc khế trong vườn. Ôi những trái khế chua khế ngọt trong vườn Huế, chen trong chùm hoa nho nhỏ hồng hồng tím tím xinh xinh. Cây khế quen thuộc đã đi vào cổ tích và cả trong ca dao: “Mưa lâm dâm ướt dầm lá khế/ Anh thương một người trong Huế đã lâu…”. Nhà thơ Nguyễn Bính viết về mưa Huế: “Trời mưa ở Huế sao buồn thế? Cứ kéo dài ra suốt mấy ngày…”. Hà là dân Huế, lớn lên cùng với mưa, không sợ cái lê thê buồn bã của mưa mùa đông. “Hôm nay mưa mà hàng cây muối, hàng phượng vàng như đang reo vui. Cây không lạnh. Một thời, tôi cũng không thấy lạnh khi dầm mưa.” Còn mưa hè thì vui như hội, bởi tắm mưa là một cái thú chỉ trẻ con ngày xưa mới được hưởng. “Tắm nước mưa là rôm sảy lặn nhanh, da thịt mát mẻ…. Tiếng í ới gọi nhau, tiếng cười đùa giòn giã, một bầy trẻ nhỏ làm rộn rã cả xóm. Có lẽ nhờ thế mà với tụi em, mưa không hề buồn.” Còn lụt nữa. Lụt Huế thế nào thì hầu như ai cũng biết rồi. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã viết: “Quê hương em nghèo lắm ai ơi/ Mùa đông thiếu áo, hạ thời thiếu ăn. Trời hành cơn lụt mỗi năm…”. Nhưng Hà, người Huế, sống chung với lũ từ khi thơ dại, Hà nhớ dai nhất không phải cái hung tàn của lụt mà là hình ảnh ấm áp tình người, giữa cái rét mướt, thiếu thốn: “Thức đêm canh lụt nên nhà nào cũng để đèn. Trong màn đêm tối đen, nước chảy bao quanh, nhà nọ nhìn nhà kia thấy có ánh đèn cũng yên lòng. Đó là những ánh đèn báo hiệu bình an, “Có tôi còn thức nè, đừng sợ!” Thật lạ lùng, Hà nói về thời tiết khắc nghiệt, về thiên tai, về những gì chính mình đã, đang và sẽ còn chịu đựng, vậy mà đọc xong trong lòng người đọc vẫn đọng lại hai từ: Vui và An. Tôi không khỏi suy ngẫm, vì sao vậy? Rồi chợt ngộ ra khi nhớ lại câu châm ngôn: “Tâm bình, thế giới bình”. Niềm vui và sự bình an đến từ lòng tốt và tình thương, như tác giả đã tự nhắc nhủ mình: “...Tự dặn lòng mình đừng làm tổn thương ai, đừng khinh khi ai, đừng bỏ lại đằng sau những người “đi chậm trong cuộc sống để đừng ai thấy mình đang bị bỏ rơi, bị tụt lại đằng sau quá xa và cô đơn trên hành tinh này...”. Hơn ba chục bài viết, với rất nhiều chi tiết và ý tưởng, ban đầu tưởng chừng như tản mạn, nhưng đọc kỹ mới thấy tất cả đều châu tuần quanh một đề tài: Tâm hồn của một người phụ nữ Huế hồn hậu, vị tha, lạc quan và chịu thương chịu khó. Có hai hướng nhìn xuyên suốt toàn tập: Một là nhìn về quá khứ, sống lại những kỷ niệm tuổi thơ; hai là nhìn vào hiện tại và tương lai, ghi nhận, cảm xúc, và chia sẻ… Hà nói về mùa hoa dã quỳ ở Đà Lạt, về miền cổ tích Phú Yên, về những vùng quê, vùng biển gần xa… Là một phóng viên của Đài truyền hình TRT, Hà đi nhiều, lăn lộn nhiều với từng thôn từng xóm, nên mới cảm thấy được mùi thơm của đất, mới nhận ra vị ngọt lành trong nắng, trong mưa, trong cỏ cây… Đã hơn nửa đời người, đi khá nhiều nơi nhưng đến lúc đọc tập tản văn của Diệu Hà, tôi mới nhận ra ngay gần đây thôi có nhiều thứ mình chưa biết như vậy. Ví như tôi đã chưa hề biết ở quê ta có loại cỏ trên là “cỏ bàng”, một thứ cỏ bền bỉ, đã giúp cho dân cả vùng có thêm cơm ăn áo mặc. Hay là tôi đã ăn bún bò, nấu bún bò, mê bún bò cả đời mà cũng nghĩ món ăn này chỉ hấp dẫn với người Việt Nam thôi, chứ không ngờ chuyên gia ẩm thực tầm cỡ thế giới, Anthony Boudain, cũng đã vinh danh bún bò Huế: “… là món súp tuyệt vời nhất mà tôi từng nếm thử.” Hay là ở Huế đã từng có một “Bồ Tát” giữa đời thường, một người đàn ông gần 40 năm đi khắp nơi trên chiếc xe đạp cũ, vào từng nhà xin gạo cho người nghèo, để đến bây giờ “Hũ gạo Ôn Siêu” vẫn là một hình ảnh cảm động ghi sâu trong ký ức người dân phường phố. Để mô tả cái hiền của người dân một vùng đất, Hà ví von “Họ hiền như những con cá cơm”. Văn của Hà và con người Hà cũng vậy! Bạn nào đã sống qua thời thơ ấu ở miền Trung thì đã hiểu thế nào là hương vị của một tô canh cá cơm rồi đó. Nhưng con cá nho nhỏ trắng ngần, mềm múp dễ thương, nằm lẫn với rau me hay rau bông ngọt, nêm chút xíu ruốc đậm đà. Một món canh khiêm nhường nhưng thật là “the thía”, dù sau này có ăn tới cao lương mỹ vị gì rồi cũng không quên. Tôi nghiệm ra rằng cả cuộc đời của con người cũng chỉ là những vận động nối tiếp nhau giữa hai chiều hướng: Đi và về. Như là nguồn và biển, nội tâm và ngoại giới, quá khứ và tương lai, quê hương và thế giới. Hà dẫn ta đi giữa hai chiều kích ấy, đường đi tuy chưa xa lắm nhưng Hà sẽ còn đi nữa, và không bao giờ sợ lạc vì đã có những ràng buộc với quê hương và tuổi thơ rất sâu bền. Dù ở chiều nào, đi hay về, vẫn xuất phát ở tình người hồn hậu, thiết tha, đằm thắm. Chỉ ước mong sao ai đi cũng có ngày về. Vì vậy mà đọc hết “Xứ mưa không buồn” rồi, lòng tôi vẫn thương thương, nhớ nhớ khôn nguôi, vẫn chưa hết bồi hồi với câu hỏi của Hà: Miền thương nhớ ở đâu?
Cựu Kim Sơn, tháng bảy 2019
T.T.M
(SHSDB35/12-2019)
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)