Cô bé Lolita dạo chơi đến Việt Nam gần đây đã làm nổ ra một sự “mất đoàn kết” không nhỏ trong giới dịch thuật. Thậm chí, có khi người ta chú ý đến chuyện nóng bỏng của “trường văn trận bút” nhiều hơn là chú ý đến vẻ đẹp của cô ấy, hay nói cách khác, giá trị của bản thân tác phẩm của Vladimir Nabokov.
Dịch giả An Lý (phải) chứng minh rằng nhiều điểm trong Lolita là bất khả dịch và như thế sẽ chấp nhận tính trung thành tương đối khi chuyển ngữ. Ảnh: NVN
Nhân trường hợp Lolita
Nhiều dịch giả kinh nghiệm đã chia sẻ thẳng thắn rằng, chưa bao giờ việc dịch văn chương áp lực và thú vị như hôm nay. Áp lực, là bởi người dịch luôn làm việc dưới sự giám sát (và sẵn sàng lên tiếng phê bình) của một cộng đồng độc giả, giới chuyên môn am hiểu ngoại ngữ, có kênh trao đổi, tranh luận qua báo chí, diễn đàn trên mạng internet. Và thú vị, là nhờ những cuộc trao đổi, tranh luận (chẳng phải bao giờ cũng đúng như mong muốn) đó, nếu bình tĩnh, sẽ thấy bên cạnh “búa rìu” là điều kiện cọ xát quan niệm, mỹ cảm và văn hóa để từ đó người dịch cẩn trọng hơn, trách nhiệm hơn, người làm xuất bản nghiêm túc hơn với những bản dịch mà mình đầu tư ấn hành.
Dĩ nhiên, điều mà người dịch cầu thị và chín chắn chờ đợi nhất là những cuộc tranh luận lấy học thuật làm trung tâm, lấy nguyện vọng chính đáng của độc giả về những dịch phẩm ưu việt hơn làm mục tiêu; chẳng ai mong muốn danh dự con người có thể bị đem ra làm “mồi nhậu” cho những cuộc rượu thô tục dai dẳng ngày này qua tháng khác dù cho nhân danh học thuật.
Sự ồn ào về bản dịch tiếng Việt tiểu thuyết Lolita của Vladimir Nabokov là một trường hợp điển hình cho thấy tính “lợi hại” quanh việc trao đổi phê bình dịch thuật một tác phẩm “khó nhằn”.
Dương Tường là một nhà thơ làm dịch thuật với hơn 50 dịch phẩm. Ông từng dịch nhiều tác phẩm kinh điển dày dặn, phức tạp của Leo Tolstoy, Marcel Proust, đến những tác phẩm cập nhật thời sự văn học thế giới của Gunter Grass, Haruki Murakami hay Patrick Modiano. Nhưng ở tuổi 82, Dương Tường bỗng gặp rắc rối với bản dịch Lolita của Vladimir Nabokov, tác phẩm mà theo phân tích của một dịch giả thế hệ sau, là văn chương có nhiều điểm cực kỳ phức tạp và “bất khả dịch” (điều này cũng đã được minh chứng bằng chính việc Nabokov “không trung thành với bản gốc” khi tự dịch tác phẩm của mình từ tiếng Anh sang tiếng Nga hay việc nhiều bản dịch tiếng Pháp, Đức của tác phẩm này phải hiệu chỉnh nhiều lần).
Chuyện lùm xùm xảy ra khi một bạn đọc có nickname là Dolores Haze (Thiên Lương) bỏ công ngồi “truy lỗi” bản dịch Lolita của Dương Tường và liên tục chỉ trích bản dịch lẫn cá nhân dịch giả lớn tuổi này trên trang Facebook cá nhân suốt hơn một năm trời. Thiên Lương cũng đưa ra bản dịch của mình, dưới dạng tự phát hành, để độc giả quan tâm có thể đối chiếu, so sánh chất lượng.
Câu chuyện dịch thuật trở nên nóng bỏng, lôi kéo độc giả quan tâm nhiều hơn đến tác phẩm, mặc dù, ở thời điểm hiện tại, ai cũng biết, những thứ được coi là “kinh điển”, văn phong phức tạp và dày quá 350 trang khổ lớn là thứ khó được quan tâm trên thị trường sách Việt Nam.
Trước những “áp lực” của cuộc tranh luận, Nhã Nam, đơn vị đầu tư đã phải cho tái bản có chỉnh sửa (các “lỗi cơ học”) bản dịch Lolita của Dương Tường và thông báo rộng rãi đến độc giả dưới hình thức tọa đàm với chủ đề Lolita-câu chuyện dịch thuật diễn ra tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh vào nửa cuối tháng Tư vừa qua.
“Nếu không có những phản ứng của Thiên Lương, có thể một bản chỉnh sửa tốt hơn đã không đến với độc giả trong thời điểm này, mà rất có thể, năm năm sau hoặc lâu hơn. Chúng tôi ý thức rằng sẽ tiếp thu ý kiến phản hồi, xem xét và làm hết sức để có một bản dịch tốt nhưng không có nghĩa là sẽ có một bản dịch chung quyết cho một tác phẩm văn chương, đặc biệt là tác phẩm văn chương phức tạp như trường hợp Lolita”, một đại diện của Nhã Nam ở phía Nam nói.
Dịch giả và đơn vị làm sách ngày nay phải tự đặt mình vào trong áp lực của một công chúng biết phê phán để nghiêm túc hơn, làm tốt nhất công việc của mình. Và điều lý thú, ngay cả người phê bình bản dịch cũng chung số phận – phải tự chịu trách nhiệm trước công chúng về những gì mình đưa ra, về học thuật cũng như văn hóa, lối hành xử… |
Trả lời câu hỏi của người viết rằng Nhã Nam đánh giá thế nào về “đóng góp” của Thiên Lương, không “miễn cưỡng ghi công” người “ném đá”, đại diện phía Nhã Nam khéo léo kể câu chuyện sau buổi ra mắt bản Lolita chỉnh sửa vào ngày 18-4 vừa qua tại Hà Nội. Chuyện là, dịch giả Lê Hồng Sâm (một dịch giả thuộc thế hệ Dương Tường) đã nán lại và nói với giám đốc Nhã Nam đại ý rằng, ở thế hệ của bà trước đây không thấy những chuyện tương tự, có khi dịch giả dành vài năm cho một bản dịch khó, nhưng đến khi ra mắt, bản dịch ấy rơi vào khoảng không, không âm không vọng. Về phương diện học thuật, những cuộc tranh luận, kể cả búa rìu, là điều đáng mừng cho đời sống dịch thuật hôm nay.
Khoảng năm năm qua, báo chí đã liên tục bị kéo vào những cuộc lùm xùm dịch thuật. Trong đó có trường hợp những dịch giả hôm qua lên tiếng về bản dịch người khác thì lập tức sau đó trở thành nạn nhân của những cuộc “ném đá” khác. Cho thấy, đã đến lúc dịch thuật nói chung, dịch văn chương nói riêng không còn là một công việc “rị mọ” lặng lẽ, ai muốn làm sao thì làm. Dịch giả và đơn vị làm sách ngày nay phải tự đặt mình vào dưới áp lực của một công chúng biết phê phán để nghiêm túc hơn, làm tốt nhất công việc của mình. Và điều lý thú, ngay cả người phê bình bản dịch cũng chung số phận – phải tự chịu trách nhiệm trước công chúng về những gì mình đưa ra, về học thuật cũng như văn hóa, lối hành xử…
“Dịch bao hàm một thái độ ứng xử”, An Lý, người dịch tác phẩm Chuyện ở nông trại của George Orwell, cũng là người biên tập bản dịch Lolita tái bản có sửa chữa, nói tại hai buổi tọa đàm mà chị và dịch giả Đinh Bá Anh tham gia với tư cách diễn giả chính. Thái độ ứng xử trong câu phát biểu ngắn của dịch giả trẻ có thể hiểu từ nhiều chiều: ứng xử giữa dịch giả với tác phẩm, ứng xử giữa dịch giả với độc giả, ứng xử giữa dịch giả với bản thân công việc dịch thuật của mình, và cả ứng xử giữa dịch giả với những dịch giả khác, dịch phẩm của người dịch khác.
Dịch giả càng “mất đoàn kết”, càng tốt?
Liệu có thể chuyển “nguyên khối” vẻ đẹp của một tác phẩm văn chương từ ngôn ngữ này qua ngôn ngữ khác thông qua dịch thuật? Nếu nói “dịch là khác” (theo cách nói của Trần Ngọc Hiếu trong một bài viết trên Tia Sáng1) thì mức độ “khác” giữa văn bản đích so với văn bản nguồn có thể chấp nhận được đến đâu? Hay nếu nói “dịch là sáng tạo” thì dịch giả được phép sáng tạo ở chừng mực nào sẽ không bị coi là đi quá “quyền năng” của mình trong hành xử với nguyên bản?... Những câu hỏi đó liên tục được đặt ra tại diễn đàn dịch thuật thời gian gần đây, mỗi khi bùng nổ tranh luận về chất lượng một bản dịch nào đó.
Nghiên cứu, phê bình dịch thuật văn chương đến nay có nhiều trường phái, nhưng sẽ chẳng có ai xác quyết đưa ra một câu trả lời chung cuộc hay tạo một định mức khả dĩ để làm thỏa mãn kẻ đặt ra các câu hỏi trên hay buộc nhiều người khác phải làm theo. Đơn giản, văn bản trong hầu hết các tác phẩm văn chương vốn đa nghĩa, ngôn từ và cấu trúc ngữ dụng văn chương không giản đơn, nên chuyện dịch văn chương, không đơn thuần chuyển ngữ chính xác là đủ (mặc dù, chính xác cũng là một tiêu chí cực kỳ quan trọng), mà còn đòi hỏi mỹ cảm, vốn am hiểu có tính liên ngành và dĩ nhiên, khả năng tái tạo ngôn ngữ ở văn bản đích của người dịch. Một dịch giả chỉ giỏi ngoại ngữ thôi thì không thể đáp ứng đủ điều kiện để trở thành một dịch giả văn chương thành công.
Có người nói, dịch văn chương - dịch văn hóa.
Và cũng chính vậy mà những cuộc tranh cãi về dịch thuật văn chương không ngừng nổ ra. Thậm chí, với những nền xuất bản phát triển một cách bình thường, việc tranh luận dịch thuật diễn ra thường xuyên, chuyện lôi kéo công chúng bằng cách tung ra nhiều bản dịch khác nhau của một tác phẩm gốc cũng là chuyện thường. Và cách văn minh nhất vẫn là để độc giả có quyền quyết định lựa chọn bản dịch nào theo mình là phù hợp nhất, khả tín nhất. Còn nhà nghiên cứu dịch thuật, qua những trường hợp đó, cũng có thể tiến hành đối chiếu, đi đến đúc kết phương pháp luận, nhằm soi tỏ cho việc thực hành dịch thuật về sau.
Như vậy, hễ có tranh luận về dịch thuật xoay quanh những tác phẩm, nghĩa là độc giả có thể hy vọng rằng, các dịch giả sẽ mang đến nhiều chọn lựa và trong số các chọn lựa đó, sẽ có những dịch phẩm ổn nhất có thể. Ngược lại, một đời sống dịch thuật phẳng lặng, nơi mà các dịch giả tự tung tự tác, muốn dịch thế nào thì dịch, phiên âm ra sao tùy thích, thậm chí muốn cắt bỏ đoạn nào trong tác phẩm gốc thì cứ cắt, chẳng ai phê phán, chẳng ai chê bai bắt lỗi, thì đó là chỉ dấu thời vận xấu của độc giả, của sách vở, của bản thân những tác phẩm được (bị) dịch.
Lịch sử dịch thuật khiêm tốn của Việt Nam đã đi qua rồi những tháng ngày dài buồn tẻ như vậy.
Một đời sống dịch thuật phẳng lặng, nơi mà các dịch giả tự tung tự tác, muốn dịch thế nào thì dịch, phiên âm ra sao tùy thích, thậm chí muốn cắt bỏ đoạn nào trong tác phẩm gốc thì cứ cắt, chẳng ai phê phán, chẳng ai chê bai bắt lỗi thì đó là chỉ dấu thời vận xấu của độc giả, của sách vở, của bản thân những tác phẩm được (bị) dịch. |
Nguồn: Nguyễn Tường - Tia Sáng
---------------
Chú thích:
1. Số 2 tháng 1/2015
Thời buổi internet thật tuyệt vời, nói vui theo “teen” kiểu “sát thủ đầu mưng mủ” thì quả là “tiện ích như cú hích”. Với nhà văn, tác phẩm viết ra xong không nhất thiết phải in thành sách, cứ post lên blog cũng có hàng nghìn hàng vạn bạn đọc truy cập, rồi cư dân mạng khắp nơi trên thế giới cập nhật thông tin, coppi, comment bày tỏ quan điểm, phô bày xúc cảm ngay, vui ra phết, chí tình ra phết.
Ngày nay, khi văn học không hoàn toàn bấu víu vào những đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì thế giới trong văn chương trở thành những thế giới ảo, dung chứa tất cả những lệch pha và ngụy tạo so với thế giới khách thể. Người sáng tạo cũng từ đó ý thức được sức mạnh trong việc cách tân bút pháp và thay đổi cảm quan trong thế giới chữ của mình.
NGUYỄN VĂN TOÀN
Té ra, cái thời nhân dân lao động làm chủ xã hội đã… xưa rồi Diễm. Và rằng, ở thời điểm hiện nay, VIP đã là một phần tất yếu của cuộc sống. Và họ cũng được dân gian nhìn nhận là những ông vua “con” ở cõi nhân tình thế thái khi sở hữu đầy ắp bao cơ man đô la và vàng bạc.
Huế là thành phố sông ngòi chằng chịt, từ sông đến đầm phá và biển. Đặc biệt, sông Hương và hệ thống thủy đạo kinh thành Huế cũng như các cồn bao quanh kinh thành phần lớn là hình ảnh mang tính biểu tượng của Huế, là một trong những cảnh quan chính của thành phố. Một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sông nước và lịch sử thành phố có khả năng tạo ra một sản phẩm du lịch độc đáo cho Huế, mở ra nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cũng như cải thiện cuộc sống người dân dọc hai bên bờ sông.
Tri thức vốn dĩ là tài sản chung của nhân loại. Tri thức là cái kho học thuật vô giá mà mỗi con người cần được trau dồi để bảo đảm vai trò, chức năng của mình trong xã hội.
Việc đại biểu Đỗ Văn Đương (TP HCM) đề nghị Quốc hội nên có Luật Từ chức (17/11) khiến dư luận xã hội có những phản ứng trái ngược nhau trong mấy ngày trở lại đây.
Việt Nam đang đứng trước con đường có khá nhiều chông gai và nhiều thử thách. Hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới, Việt Nam cần nhiều sự đổi mới để tiếp tục phát triển.
Trong những năm gần đây, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã tạo nên sự trù phú cho nhiều làng quê Việt. Tuy nhiên, song hành với đó bản sắc văn hóa làng Việt đang bị mai một dần; nếu không có giải pháp gìn giữ thì những làng quê truyền thống, những nếp làng xưa sẽ chỉ còn trong ký ức.
I. Ba bước chuyển hệ hình trong văn học Việt Nam và vai trò của các nhà văn trẻ
SHO - Có cảm giác như xã hội đang mặc nhiên coi chuyện chạy điểm cho con em, chạy theo thành tích cho học trò lâu ngày đã thành thói quen khó chữa khiến người ta quên rằng lòng tự trọng, lòng nhân ái là cao hơn hết và cần có mặt hơn hết! Có phải người ta đã quên đi lòng tự trọng, lòng nhân ái cần có hay không? Tôi không bi quan đến mức nói rằng người ta đã quên nhưng quả thật không thể dửng dưng trước câu hỏi đó.
Bài viết này có thể gọi là sự nối tiếp bài " Các cây viết trẻ Việt liệu đã thua trên sân nhà? " cách đây không lâu của tôi. Tôi viết bài tiếp theo này là vì ở bài viết trước có nhiều ý kiến thảo luận của người đọc đã mở ra cho tôi những cách nhìn sâu rộng khác hơn về chủ đề đã nói trong bài viết trước.
LTS: Tình cờ trong lúc lang thang trên mạng, SHO đã đọc được bài viết này trong một blog. Thiết nghĩ đây cũng là vấn đề nảy sinh thực trạng đáng buồn giữa các nhà văn trẻ và các nhà xuất bản, SHO đăng tải để chúng ta cùng cận cảnh...
Tháng bảy về rồi, nơi quê nhà quê mẹ đã thu chưa? Nơi con ở bây giờ, gió đã chuyển mùa, để rồi chiều nay khi lang thang trên con đường xứ sở, con chợt thảng thốt nhận ra rằng chỉ còn vài ngày nữa thôi, mùa Vu lan sẽ lại về. Nhanh thật đó!
Với đặc thù của môn Lịch sử ở bậc THPT, những câu hỏi mang tính khái quát về tiến trình lịch sử sẽ có giá trị hơn nhiều so với những câu hỏi đi quá sâu vào tiểu tiết mà chúng ta vẫn gặp trong các đề thi Lịch sử hiện nay và kết quả thi nhiều khả năng sẽ tốt hơn.
Dễ ai quên câu hát: “Trời sinh voi trời không sinh cỏ, Thượng đế buồn Thượng đế bỏ đi”.
Lòng yêu nước vốn rất sâu sắc và mãnh liệt xét trên 2 bình diện xã hội gồm giai tầng lãnh đạo(người nắm quyền cai trị) và người dân (kẻ bị trị) đã có lúc bị mai một và chỉ còn như cái bóng khi dân bị bóc lột, hà hiếp còn vua, quan chỉ chăm chăm cướp đoạt, làm giàu, hưởng lạc và chia bè kéo cánh.
Có những tình huống mà im lặng không giúp ta tránh né được hiểm nguy, ngược lại chỉ làm tăng mối họa vì khiến người khác lầm tưởng im lặng là bạc nhược.
Bán bà con xa mua láng giềng gần, điều đó đúng trong trường hợp người láng giềng có đủ nhân cách và mức độ tự tin để chúng ta làm được điều đó.
Báo chí trong tháng 5.2011 vừa qua trong rất nhiều thông tin đời sống xã hội, có nêu những vấn đề nổi cộm khiến cho nhiều người cầm bút phải suy nghĩ.
Trong tháng Năm này, cả nước tiến hành cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.