“Khi người ta cúi mặt” - lượm những mảnh vỡ bản thể

10:13 19/09/2011
MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.

Bìa: Đinh Khắc Thịnh

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Từng bài thơ là những mảnh vỡ bản thể - có những mảnh vỡ như viên đá thia lia trong mặt hồ nội khảm, chấn động, sóng loang, suy tàn để lại một mặt phẳng tĩnh mặc. Và, cũng có những mảnh vỡ sắc cạnh như lưỡi dao lam, cắt cứa…

nhiều khi/ ta quỳ dưới gốc nhang cắm đau lòng cát
cái lạy như nhát chém/ chậm giữa không gian thánh đường/ tồn lưu âm bản
Máu rỏ. Tráng phim. Vén mặt kiếp người

                                    (Nhận diện)

Ngôn ngữ trong thơ Nhụy Nguyên cô đọng như những vệt “máu rỏ”. Nó làm người đọc giật mình “nhận diện” lại chính mình: hình như ta là thế, nhưng… ta chưa từng biết mình đã từng như thế:

ta quỳ dưới gốc nhang cắm đau lòng cát
cái lạy như nhát chém


Câu thơ lột tả được bề mặt chìm khuất của những hành vi tín ngưỡng, những hành động rất thân quen trong đời sống tâm linh người Việt, nhưng khi trôi qua ngôn ngữ của Nhụy Nguyên nó đã hiện lên cái bóng của hành vi, đã “vén mặt kiếp người” để thấy rõ phần “âm bản” ẩn sau những khát vọng. Đọc “Nhận diện” bất thần tôi nhìn lên bát nhang trên nóc bàn thờ, và tự hỏi, liệu rằng cái bát nhang ấy đã từng phải chịu đựng biết bao nhiêu “nhát chém” khát vọng nài khẩn của tôi.

Căn bệnh đang lây lan trong những người làm thơ ngày nay là thơ thường hùng hổ, hầm hố về chữ nghĩa, nhưng lại cạn cợt về tri kiến. Nhụy Nguyên cố gắng né căn bệnh trên, và, hình như anh đang lo lắng cho những “cuộc đời thi nhân” khác, khi gửi trong bài thơ lục bát chỉ hai câu này một lời dặn dò, phản tỉnh:

Một ngày xác chữ lên ngôi
Huyệt thơ rỗng suốt cuộc đời thi nhân
                                        
(Huyệt thơ)

Và tự mình, anh biết “điểm huyệt” người khác bằng… thơ:

Tôi ngồi đối bóng cô đơn
Thơ nương vào những linh hồn mọc lên
Tôi ngồi đánh bóng tuổi tên
Nghe thơ chết yểu trước hiên nhà mồ
Tôi ngồi đối bóng giấc mơ
Thấy mình như một câu thơ... liệm rồi
Em giờ ảo ảnh trong tôi
Còn ai đánh bóng dáng ngồi chịu tang!?
                                                  (Chiêu hồn)

“Chiêu hồn” là một cú điểm huyệt người khác bằng sự biểu cảm của âm vị ngôn ngữ, những từ: “liệm” “chịu tang”,… rất nhọn về mặt âm vị học, lại được cộng cảm bởi sức nặng nội hàm chứa đựng trong nội dung bài thơ, khiến cho cú điểm huyệt ấy đâm vào trạng cảm người đọc, tê dại như “dáng ngồi chịu tang”.

Trong tập thơ “Khi người ta cúi mặt”, Nhụy Nguyên đã dành một thời lượng thơ đáng kể và trân trọng cho lục bát. Lục bát của Nhụy Nguyên nhuyễn, và vẫn mang trong nó cá tính thơ của anh: ngôn ngữ cô đặc, và thường nhói lên những từ rất đắt:

đêm nằm nghe tiếng Vạc rơi
mảnh sắc như lệ em thời dở dang
tôi rời giấc ngủ đi hoang
giẫm phải tiếng vỡ máu loang đường về!
                                                (Dưới vòm đêm)

Nhụy Nguyên là người làm thơ quan tâm đến đối tượng văn hóa của những tộc người thiểu số, đọc “Khi người ta cúi mặt” thấy thấp thoáng điều ấy trong thơ anh:

Khố trời cũ đã nhiều năm
Trăng soi chi nữa sợi tằm thêm phai
Dệt Zèng… nàng lỡ trao ai?!
Tình tôi không khố bóng lầy dưới trăng

                                             (Manh tình rẻo cao)

Nhưng anh viết về đối tượng văn hóa, trên một điểm trông từ tâm thức hiện đại - nhìn nhận những hiện tượng văn hóa theo cái cách của riêng anh, riêng bằng ngôn ngữ - một kiểu ngôn ngữ khá lạ, nhưng có sức khái quát khá lớn: Khố trời cũ đã nhiều năm. Việc kết hợp giữa “khố” - một loại trang phục cổ mà nay đồng bào thiểu số vẫn dùng, với “trời” - một không gian, là một sự kết hợp thú vị. Sự kết hợp này đã mở phơi một vùng trầm tích, cùng lúc diễn tả được sự tác động của không - thời gian vào trầm tích ấy, một sự diễn tả cô đọng, khái quát, dẫn liên tưởng của người đọc cảm nhận được cái mòn, cái cũ của tác động thời gian, cùng lúc suy tưởng rộng được đến không gian sống của những tộc người thiểu số.

Người ta thường bảo rằng, muốn viết về các hình thái văn hóa của đồng bào thiểu số thì phải lăn lộn sống cùng họ, để bắt được cái hiền linh, cái thần khí sâu kín ẩn bên trong các hình thức sống rất giản dị, rất chân phương của đồng bào. Nhưng, tôi thấy ở Nhụy Nguyên một cách tiếp cận khác, anh viết trong tâm thế như một gã lang bạt kỳ hồ đang cầm máy ảnh chụp lại những khoảng khắc sống của họ:

5h chiều. Cuối hạ/ mặt trời chưa tắt/ trên rẻo cao đã lạnh
cụ chủ nhà (có người con trai vừa hóa thân vào cây Kim Giao) ngồi thu lu trước bậu cửa
tẩu thuốc dài bằng một ngày sắp qua

Trong điều kiện hiện nay, những người viết khó có điều kiện để trải nghiệm sâu vào đời sống của đồng bào, thì cách tiếp cận này là một cách hợp lúc. Nó không phải ở trong viết ra mà là ở ngoài viết vào; nó là diễn tả cái nhận thức được trước những gì đang diễn ra, chứ không phải là tiếng vọng ra từ bản nguyên sự vật:

liệu tôi có bị rừng Ma trừng phạt/ tội đốn gãy... ai đó?

trong ngôi nhà trọ/ tôi hết đứng lại ngồi
hết nhìn cụ già lại nhìn vô - bên bếp lửa
đỏ như máu cây Kim Giao
có người phụ nữ ngồi thu lu...
Chị mới chết chồng!
                                 (Đoạn cuối của ngày)

Tuy vậy, cách tiếp cận sự vật này đòi hỏi người viết phải có một nhãn quan tinh tế, một tâm thế nhân văn tha thiết, nếu không rất dễ dẫn đến sự mô tả các hình thái văn hóa bị chủ quan, sai lệch. Là cách viết hợp lúc chứ không phải là cách viết có thể với tới tận cùng bản nguyên văn hóa.

Nói Nhụy Nguyên viết trên tâm thức hiện đại bởi thấy rõ một chủ ý sàng lọc, anh không loại trừ các hình thức tu từ kinh điển, nhưng cùng lúc vẫn mang tâm thức phân mảnh theo lối viết hậu hiện đại:

...lớp động vật bậc cao nhân danh sinh tồn.
Giữa rừng người niêm phong,
tôi thành con mồi dự khuyết!
                                   (Thời điểm…)

Ở bài thơ trên, hai câu đầu thể hiện một đại tự sự bao trùm, nhưng câu cuối: “tôi thành con mồi dự khuyết!” lại là một mảnh tiểu tự sự được quăng ra bất ngờ vào tâm tư người đọc. Điều này tạo cho cấu tứ của bài thơ một sự tương phản thú vị, nó thể hiện người viết biết chủ động điều tiết, không bị sa đà quá nhiều vào trào lưu quăng rải “tiểu tự sự” tràn lan trong khuynh hướng viết hiện nay mà trào lưu Hậu hiện đại đang phô diễn, sự điều tiết này là một gợi ý cho các tác giả trẻ, nó đảm bảo cho thơ một tâm thức đương đại, đảm bảo được tính thời trang cho thơ. Nhưng vẫn giữ được yếu tính thẩm mỹ văn chương.

Tôi muốn dành đoạn cuối của bài phê bình nhỏ này để viết về điều mà theo tôi là đặc sắc nhất trong thơ Nhụy Nguyên, đó là cái chất phân tâm học được cài nén trong thơ, cài nén đến độ căng nhức. Nhụy Nguyên dồn ép ý niệm vào ngôn ngữ vốn đã rất khái quát của mình đến tận cùng, như là cái lò so đã bị dồn nén hết cỡ. Nó khiến cho khi đọc thơ anh giống như cảm giác rút chốt, đọc tới đâu là bật tung ý niệm đến đấy:

thời hoàng kim của nỗi buồn/ giết không biết bao nhiên nơ ron thần kinh
tôi chuyển qua kiếp vật/ sống như chết rồi...
                                            (Lật trang sử đời)

Bằng công cụ phân tâm học, Nhụy Nguyên đã truy tìm về được tận cùng bản ngã:

nửa đêm
                về sáng
con mèo hoang động đực/ kêu như đứa trẻ đói sữa
tôi nằm một mình trong ngôi nhà hoang
vật vã nỗi nhớ em
...man trá

trên xà nhà/ chợt con mèo hoang diệt dục

còn lại tôi,
với nát nhàu
bóng em.
                              (Khoảng vô thức)

Xỏ ý niệm vào đôi dép ngôn ngữ, Nhụy Nguyên đã lặn lội vào được “Khoảng vô thức” của con người. Nơi ấy thường rất hoang vu ít ai tới được, kể cả chính mình. Ở nơi ấy, cái gọi là “Và quỷ. Và tôi” thường rất u minh, bụi bám:

đêm qua,
              giữa sự minh bạch nhất của kiếp người
chỉ có mỗi hạt bụi
                           uằn oại
                                      dưới tấc lưỡi của quỷ.
                       
                                   (Và quỷ. Và tôi)

Cái “ngã” hiện diện trong các mô thức ngôn ngữ lắp ghép các ý niệm không thuộc cùng một phạm trù: “Mưa/tàn phế”, nó nhễu lại mảnh tâm thức phức cảm: cái rạo rực vẫn hiện hữu trong vùng khát vọng đã suy đồi, đã “tong teo” nhưng vẫn nhồn nhột cảm giác:

mưa thấm vào đêm buốt giá
tong teo cái rùng mình
tôi gầy thêm sau lần dâng hiến
giọt nghìn vạn sinh linh.
                     (Mưa tàn phế)

Có thể nói dục tính trong Nhụy Nguyên đã tràn qua… thơ. Nhưng không thô tục hóa thơ mà chỉ khiến thơ anh thêm ẩm ướt, hoang dã:

những câu thơ tôi viết/ như bầy thú chưa được thuần dưỡng
tay thợ săn cừ khôi nào đó đã/ lừa chúng vào một chỗ
nếu đói,
               chúng sẽ ăn thịt nhau
 nếu no,
                chúng bày trò dâm đãng
                                             (Hoang dã thơ)

Chắc không ai tin, rằng vũ trụ này sẽ bị… khuyết, nếu như thiếu một khuôn mặt ai đó, một mảnh vỡ nào đó. Thơ Nhụy Nguyên là sự góp mặt của những mảnh vỡ bản thể, đôi khi chúng như những “vết sẹo” thường bị người ta cố giấu, cố tẩy xóa. Nhưng, nếu với một tâm thế yêu thương nhìn lại, sẽ thấy có những vết sẹo tỏa hào quang. Bởi cuộc đời này đẹp vì nó chưa bao giờ hoàn hảo, đẹp bởi nó có những vết sẹo bất toàn duyên dáng, bởi cả cái chết cũng không phải lấy đi tất cả, khi tử thần vẫn để lại những dấu chân…

Mỗi bận soi gương/ Tôi chỉ tìm “vết sẹo”
Vết sẹo, hẳn như một dấu nhân của tử thần…”
                   (Khuôn mặt góp vào nhân loại)

Tập thơ “Khi người ta cúi mặt” được viết với một tâm thế phản tư, một tập thơ giàu tri nghiệm và mang những nét cảm xúc sắc lẻm, cắt cứa. Những bài thơ đi đến tận cùng tâm tư người đọc không phải trên lối đại lộ, mà là những ngõ, những ngách. Đọc sẽ ngạc nhiên! Rằng hóa ra, hễ là con đường bất kể dù to như đại lộ hay nhỏ như con hẻm, nhưng ắt vẫn sẽ dẫn đến một nơi nào đó... Nó gợi nhắc cho người đọc nhận diện lại mình khi cúi lượm những mảnh vỡ bản thể nằm rơi rớt suốt chiều rộng của cuộc sống và suốt chiều dọc cuộc đời. Nó cho người đọc những cơn phản tỉnh, để tìm thấy một chân lý giản đơn rằng: đi trên dòng đời này, sẽ chẳng nhặt nhặn được gì nếu chỉ biết ngước lên.

M.D
(271/09-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGỌC THẢO NGUYÊN

    Buổi sinh hoạt được đặt tên là Tọa đàm bàn tròn về thơ. Đây là buổi sinh hoạt mang tính chất thử nghiệm của Phân hội văn học (lại một cách nói rào đón nữa chăng?)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Duy nhất chỉ thơ mới đứng cùng bình diện với triết học và suy tư triết học
                                        Heidegger
    Con người, sống trên đời, như một thi sĩ
                                        Heidegger

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Trong thơ tình, tình yêu là kẻ chiến thắng sau cùng. Chứ không phải lý trí, đạo đức, chính trị hay lịch sử. Bao giờ và ở đâu cũng thế.
    Chỉ còn anh và em
    Cùng tình yêu ở lại

  • PHAN ĐÌNH DŨNG   

    Từ hai cuốn sách: Những người thân trong gia đình của Bác Hồ, Bác Hồ gặp chị và anh ruột; soi vào những bài thơ của Bác, chúng ta có dịp nghiền ngẫm thêm về những tình cảm riêng/chung của Người.

  • NGUYỄN XUÂN HÒA

    Thảo Am Thi Tập của Nguyễn Khoa Vy không chỉ có giá trị về mặt nội dung mà còn có giá trị về mặt nghệ thuật.

  • LÊ KIM PHƯỢNG

    Với thi sĩ Cao Quảng Văn, thơ là cảm xúc thăng hoa tuyệt đỉnh và nếu văn chương có đích, thì thơ là tuyệt đích của tâm hồn. Ở chốn đó, sáng tạo ra đời. Vì vậy, thưởng thức thơ không thể không bằng cảm xúc từ trái tim của người đọc: “Thơ là tiếng nói từ trái tim đập vào trái tim”.

  • LTS: Nhà thơ Ngô Minh, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1949; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, cộng tác viên thân thiết của Sông Hương. Sau cơn tai biến nặng từ trưa 26 tháng 11 năm 2018, nhà thơ đã từ trần tại nhà riêng vào lúc 23 giờ 12 phút ngày 3 tháng 12 năm 2018. Nhà thơ được an táng tại Khu nghĩa trang phường Hương Long, thành phố Huế (sau lưng chùa Thiên Mụ).
    Sông Hương thành kính chia buồn cùng gia quyến và bạn đọc, xin đăng bài viết dưới đây của nhà thơ Đông Hà, như là nén nhang tưởng nhớ, vĩnh biệt một người thơ…

                Ban Biên tập

  • HỒ THẾ HÀ

    Hoàng Diệp là thơ nổi tiếng với thi tập Xác thu (Nxb. Nam Kỳ, Hà Nội, 1937) trước khi trở thành nhà phê bình, nghiên cứu văn học.

  • PHAN VĂN NAM    

    Sau các tập thơ Cùng đi qua mùa hạ (Nxb. Văn nghệ, 2005), Phía bên kia cây cầu (Nxb. Phụ nữ, 2007) và Ngày linh hương nở sáng (Nxb. Hội Nhà văn, 2011) được trao nhiều giải thưởng văn chương uy tín, tác giả Đinh Thị Như Thúy tiếp tục ra mắt tập thơ mới Trong những lời yêu thương (Nxb. Hội Nhà văn, 12/2017).

  • VĂN THÀNH LÊ    

    1.
    Có thể nói Trần Đăng Khoa là trường hợp lạ của văn đàn Việt. Giữa thời đại cả nước lo ra đồng chạy ăn và ra trận đánh giặc, cuối những năm 1960 đầu những năm 1970, cậu bé Khoa cùng những cô bé/cậu bé 9 - 10 tuổi khác như Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Quý, Trần Hồng Kiên… “đã đi lạc” vào thơ.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    Nhiều người đến dự buổi giới thiệu Tự truyện “Mạ Tui” do Tạp chí Sông Hương và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán phối hợp tổ chức không biết Nguyễn Viết An Hòa (NVAH) là ai, nhưng khi Ban Tổ chức cho hay đó là bút danh trên Facebook (Fb) của thầy giáo Nguyễn Viết Kế, thì đều vui vẻ thốt lên: “À…”.

  • ĐỖ LAI THÚY

    Lý thuyết hệ hình là một hệ pháp nghiên cứu sự phát triển. Văn học Việt Nam, do những đặc điểm riêng thuộc của mình, không phát triển nối tiếp như ở các nước phương Tây, mà gối tiếp như những làn sóng, con trước chưa tan thì con sau đã tới, hay đúng hơn vừa là nối tiếp vừa là gối tiếp.

  • SƠN CA 

    Mất mát, tận cùng của mất mát. Cô đơn, tận cùng của cô đơn. Thực tại “vặn xoắn con người đến mức cảm giác không còn hình hài”.

  • NGUYỄN THANH TÂM    

        …đi về đâu cũng là thế… 

  • GIÁNG VÂN

    LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.

  • HỒ THẾ HÀ

    Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất sắc trong thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cuộc sống và trang thơ của ông đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và giải mã ở tất cả các cấp độ thi pháp với giá trị độc sáng riêng của chúng. Người đến sau khó có những phát hiện gì thêm từ thế giới chỉnh thể nghệ thuật ấy.

  • NGUYỄN THÀNH NHÂN

    Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.” 

  • PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
    Nhân 17 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Văn Bổng (11/7/2001 - 11/7/2018)    

    Nói đến Nguyễn Văn Bổng trước hết chúng ta nói đến một nhà văn xứ Quảng anh hùng, giàu bản sắc, một nhà văn hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, một bút lực dồi dào, với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống, là nói đến một khối lượng lớn những tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký có giá trị… (Nhà thơ Hữu Thỉnh).

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân.