Trước các đồng sự của mình tại tòa Bạch ốc, Tổng thống Barack Obama bất ngờ mang tấm bích chương. Ông trịnh trọng bước ra trong im lặng và sau đó, Ông nở nụ cười thật tươi, những bàn tay của các nhân viên của Ông vỗ đều. Một cử chỉ thật đẹp, một nhân cách “thuyết pháp vô ngôn” của vị Tổng thống nước Mỹ.
Tổng thống Obama bên khung hình Đức Phật
Không đặt cái khung hình Đức Phật chỗ đâu, chính tự tay Ông mang tới ngay trên cái bục mà ông thường hội kiến với các danh thủ cao cấp và sau đó Ông đã mở lời bằng câu nói của vị thiền sư nhà Phật “this is it”. Tại chỗ đứng của mình, Ông đã không còn nói gì! Có lẽ câu chuyện này đã lan truyền đi rất nhanh và tất cả mọi người sau đó, chính họ đã cảm nhận ra một con đường có thể mở lối, khai thông cho họ, những khi không còn cách nào khác, để xử lý những tình huống mạo hiểm, không an toàn cho chính họ và cho những vấn nạn chiến tranh. Họ đã đem hình ảnh của Đức Phật, như muốn soi lại chính mình, có thật trong số chúng ta đã “yêu hòa bình” rồi không? Và khi chúng ta làm những quyết định đó sẽ gây tổn hại, thương vong đến cho đồng loại ở hiện tại, tương lai.
Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta có thể mở mắt nhìn nhân loại trong thái độ từ bi và vô ngã của đạo Phật. Những lúc như vậy, Barack Obama thường tìm đến cõi tâm linh để thực tập thiền tọa (hít thở). Ông nói: “ vào những lúc như thế tôi cần Phật nói thay tôi”. Vì chính Ngài- Thượng đế mới có trách nhiệm với chúng sanh hơn là tôi. Tôi không thể lấy một “Bản ngã” của mình để thay thế, áp đặt lên trên tất cả. Công án thiền “This is it” đã làm tôi thay đổi mọi phương diện, quyết định. Tôi đã tìm ra nguyên nhân, hậu quả cho một “cái ta” vượt ra ngoài giới hạn cho phép. Đôi khi Ông tự hỏi “Làm chính cho tôi hay cho các đồng sự”. Nếu mình làm bằng cái tâm để phục vụ cho đất nước, cho sự an ninh của các đồng minh thì điều đó hoàn toàn là cách mà Ông lựa chọn để đi tới hành động, còn nếu làm với tư cánh đơn lẻ, độc đoán và trong sự thù hận, mù quáng thì Ông càng buông bỏ những tư kiến của mình, của nó, của chính nó “This is it” vào một thời điểm thích hợp khác.
Tôn tượng Đức Phật lần đầu tiên chiêm bái ngay trong Nhà trắng (White House), được cộng đồng thế giới, các nhà hòa bình nói là hết sức có giá trị đối với một xã hội vật chất,tranh chấp, bất an. Ông đã từng nói “Tôi đã chiêm nghiệm rất nhiều về những điều mà một con người có thật trong lịch sử, giống như Gotama đã từng đi đến giai đoạn chỉ thực hành, mà chính Buddha đã từng tuyên bố sau bốn mươi chín năm thuyết pháp và hành đạo ta chưa từng nói lời nào”. Có lẽ, chúng ta cũng vậy, có những phiên họp, cuộc bỏ phiếu hay ra những quyết định, trong những lần ấy, tất cả chúng ta có thể ngồi yên để nhìn một đấng giác ngộ, nghĩ về một gương sáng nào đó trên thế giới.
Với tôi, ngay bên trong ngôi nhà này, với những con người đại diện cho năm mươi mấy Tiểu bang có thể dành ra những giây phút bình yên nhất cho một ngày để cầu nguyện và soi sáng lại chính mình ‘This is it’. Chỉ cần chúng ta chiêm ngưỡng hình bóng Đức Phật trong ngày hôm nay thôi là đủ để tâm ta sáng suốt, việc ta nhẹ nhàng, mọi người được sống trong sự tin cậy và yêu quý. Đó chính là Ngài đang thuyết một bài pháp về lòng từ bi, bất bạo động thiết thực.
Vào một ngày, không có tôi không còn trong White House, tôi không thể hiện diện trong căn phòng Bầu dục này nữa thì Đức Phật là con người có thể tồn tại theo thời gian, và Ngài sẽ là hình ảnh sống ngay thẳng, minh bạch, không phân biệt cho chúng ta.
Nguồn: Thích Pháp Bảo - vedepphatphap.vn
Pushkin - Chekhov - Prisvin - Dostoyevsky
HOÀI PHƯƠNG
Việc làm tranh giả chỉ đến thế kỷ thứ 17 mới bắt đầu phát triển, trước đó người ta thường làm các đồ mỹ nghệ hay các loại tượng giả.
LÊ ĐẠT
(Giới thiệu và dịch)
Thế kỷ XX, một trào lưu thơ được mệnh danh là thơ mới Pháp từ sông Seine đã tràn qua các đại dương và ảnh hưởng sâu đậm đến phong trào thơ thế giới.
MOHINEET KAUR BOPARAI
CHU ĐÌNH KIÊN
Vượt qua nhiều nhà văn tên tuổi được bạn đọc trên toàn thế giới mong đợi được gọi tên như: Annie Ernaux (Pháp), Margaret Atwood, Anne Carson (Canada), Haruki Murakami (Nhật Bản), Ludmila Ulitskaya (Nga), Ngũgĩ wa Thiong’o (Kenya)… năm nay, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã công bố quyết định trao Giải Nobel Văn học năm 2021 cho nhà văn Abdulrazak Gurnah (1948).
NGUYỄN VĂN DŨNG
Bút ký
Là thủ đô của vương quốc Thụy Điển, Stockholm được mệnh danh là “Một trong những thành phố đẹp nhất thế giới”, là “Thủ đô xanh”, là “Thủ đô của những thủ đô vùng Scandinavia”, là “Thành phố của mọi cảm giác”, là “Thành phố của nước và cây”, là “Venice của phương Bắc”, là “Con đường dẫn đến giải Nobel”… Tôi thích hình tượng: Con đường dẫn đến giải Nobel.
MICHAEL MARDER
Tất cả chúng ta đều đã nghe nói đến công dụng của vi khuẩn đường ruột khi tham gia tích cực vào trong quá trình tiêu hóa của con người và động vật. Đó là ví dụ hoàn hảo về sự cộng sinh, hay sự chung sống lâu dài của các sinh thể thuộc các loài khác nhau.
MICHAEL MARDER
Michael Marder là giáo sư triết học tại Đại học Basque Country, Vitoria-Gasteiz. Ông làm việc trong các lĩnh vực như hiện tượng học, triết học chính trị và lý luận về môi trường. Là tác giả của 10 đầu sách gồm Plant-Thinking (2013), Pyropolitics (2015), Dust (2016),… Hiện ông đang triển khai hướng tiếp cận triết học về vấn đề năng lượng vốn được truyền cảm hứng từ suy tư về cây cỏ, thực vật.
EMMANUEL ALLOA
Cơ chế của mỗi trận đại dịch đều hết sức quen thuộc: mỗi cuộc khủng hoảng đều có những thủ phạm nhất định của nó.
PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
Tiểu thuyết ngắn Chết ở Venice được Thomas Mann cho ra đời năm 1912, khi bệnh tả là một căn bệnh đang gây ra cái chết hàng loạt ở Ý.
CARLOS SPOERHASE
Ta có thể đánh giá Louise Glück qua các tác phẩm mà bà đã xuất bản trong vòng 5 thập niên vừa qua, vốn đã được trao tặng những giải thưởng văn học danh giá nhất nước Mỹ.
VŨ THƯỜNG LINH
LGT: Kỷ niệm 75 chiến thắng chủ nghĩa phát xít (1945 - 2020), chúng ta quay lại vấn đề “The Reader” (Người Đọc) của nhà văn người Đức, Bernhard Schlink, đã vang dội trong tâm thức văn học toàn thế giới.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Nhân đọc “Lời nguyện cầu Chernobyl” - Nxb. Phụ Nữ, 2020)
GIÁP VĂN CHUNG
Truyện Kiều của Nguyễn Du, không chỉ là kiệt tác vô tiền khoáng hậu của thi ca và văn học Việt Nam, mà còn là viên ngọc quý mãi mãi lấp lánh sáng của văn hóa Việt Nam.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Đầu tháng 5 năm 1989, từ Moskva, nhà văn Vương Trí Nhàn rủ tôi đi thăm nhà giáo Trần Đình Sử(*) đang làm thực tập sinh cao cấp ở thủ đô Kiev của nước Cộng hòa Ucraina.
ORHAN PAMUK
Trong bốn năm qua, tôi đã và đang viết một cuốn tiểu thuyết lịch sử kể lại câu chuyện diễn ra vào năm 1901, trong suốt giai đoạn được biết đến với cái tên Trận đại dịch hạch thứ ba. Đó là một đợt bùng phát bệnh dịch hạch đã giết chết hàng triệu người ở châu Á khi mà châu Âu không chịu nhiều ảnh hưởng từ nó.