“Hai phía chân dung” ngẫu hứng những trang đời

16:17 09/08/2021

VÕ QUÊ    

Từ trước đến nay chúng tôi chỉ được đọc và trân quý thơ văn của nhà thơ Lê Quốc Hán qua những bài viết đăng trên các tạp chí, trên mạng thông tin, báo điện tử mà chưa được trực tiếp cầm trên tay một cuốn sách nào của ông.

Nay qua mạng xã hội, được biết tác phẩm văn xuôi đầu tay mà ông gọi là ngẫu văn “Hai phía chân dung” (Nxb. Nghệ An, 2021) ra mắt bạn đọc, chúng tôi vội tìm sách qua anh Nguyễn Trọng Quế, người bạn đồng môn của nhà thơ với tấm lòng mến mộ.

Mến mộ là phải vì chỉ với trang bìa gấp của “Hai phía chân dung” đã thấy hiện ra dòng tiểu sử Phó Giáo sư, Tiến sĩ toán học Lê Quốc Hán là Nhà giáo Ưu tú, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam với các tác phẩm thơ: “Lời khấn nguyện”, “Biển vô cùng”, “Mạc khải”, “Bất biến”, “May”; Bình thơ: “Thơ trong ký ức”, “Giao cảm thơ”; Văn xuôi: “Hai phía chân dung”. Từ những tác phẩm văn học ấy, ông đã nhận 6 giải thưởng văn học có giá trị về thơ, bình thơ, văn xuôi.

Đúng với tinh thần ngẫu văn, 69 bài viết trong cuốn sách dày 356 trang đã có sức hấp dẫn người đọc. Gia quyến, thân thế, sự nghiệp ông phong phú, đa dạng quá. Hình ảnh người cha: “Cha ta, một tín đồ nhiệt thành của tôn giáo thi ca. Người sinh ra bên bến Tam Soa, nơi hai con sông Ngàn Phố và Ngàn Sâu hợp lưu với sông Cả thành Lam Giang rồi đổ ra biển cả. Chẳng biết có phải vì tình đồng hương hay không mà ngày nào Người cũng đọc thơ của chàng thi sĩ họ Cù cho ta nghe. Người thổi vào hồn ta nỗi sầu mang mang thiên cổ” (Điều bí ẩn thứ ba), hình ảnh người mẹ (Người mẹ thứ hai), người thầy (Vầng trăng thơ dại), hình ảnh người chị (Chị tôi), người bạn (Người thi vào đại học điểm mười văn)… qua bút pháp tài hoa của ông đã khơi gợi nhiều hồi ức đẹp, nhiều kỷ niệm quý báu vui, buồn, thương cảm cùng những con người nhân ái, cao thượng, mẫn tiệp, tài năng, trung hậu đã từng gắn kết với cuộc đời ông qua thời bình, thời chiến trên mảnh đất quê hương yêu dấu. Khi viết về họ, những mạch nguồn tình cảm thiêng liêng, tâm huyết trong ông được thể hiện khúc chiết, chân thành, chứng tỏ ông có một tâm hồn lớn, luôn nâng niu, gìn giữ những giá trị văn hóa, tinh thần từng đồng hành với nhịp đời ông.

Đi và viết là một mảng đề tài đặc sắc trong “Hai phía chân dung”. Bên cạnh những trang văn ngẫu hứng, rung cảm, đầy ắp suối nguồn thương yêu dành cho quê hương tươi đẹp, giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi học tập, trưởng thành: “Tôi chôn rau cắt rốn ở Kỳ Anh, vùng đất phên dậu từ thời Lý - Trần - Lê là đại bản doanh của Chúa Trịnh thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, và trung tâm của chiếc đòn gánh miền Trung gánh hai đầu đất nước mấy trăm năm sau này.

Một người bạn vốn tính lãng mạn đặt cho Kỳ Anh quê tôi cái tên mỹ miều “Thung lũng nàng tiên”. Anh có cái lý của mình, vùng đất này bốn phía bao bọc bởi núi liền núi. Phía Bắc núi Voi Phục, núi Xuyên Cầm dăng ngang. Phía Nam Hoành Sơn trải dài, tạo thành biên giới tự nhiên giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình. Phía tây dãy Giăng Màn - một khúc Trường Sơn - bốn mùa mây trắng, mây đen bao phủ. Phía đông núi Cao Vọng, núi Bàn Độ cao vút chọc trời với bao sự tích huyền thoại”
(Thung lũng nàng tiên), ông Lê Quốc Hán đã rất tinh tế, uyên bác khi tâm huyết viết về những nơi chốn từng qua. Phải chăng từ những trải nghiệm sinh động của thực tiễn cuộc sống đã giúp ông có những tầm nhìn chuẩn xác, những nhận định khách quan nhưng vô cùng tình cảm để mỗi địa danh ông nhắc tới đều sống động, hiện hình các sắc thái, sự kiện, cảnh quan thiên nhiên, của con người, tạo hiệu ứng cho độc giả, khiến họ muốn được tìm về nơi ông đã từng đi và viết. Điều này có thể tìm thấy qua các ngẫu văn “Đất nước đẹp dáng rồng bay”, “Một thoáng Thiên Cầm”, “Về quê Bà Chúa thơ Nôm”, “Chạm ngõ miền Tây”, “Một góc Thành Vinh”, “Ấn tượng Cửu Long Giang”, “Ký sự Đồng Nai”…

Tình yêu dành gởi gắm vào thảo hoa, cây lá trong nhà thơ Lê Quốc Hán cũng bàng bạc, mênh mang cùng cung bậc lãng mạn, trữ tình. Ngẫu văn “Đất nước ngàn hoa” đã khái quát về non sông gấm vóc Việt Nam mùa nào hoa nấy đẹp đẽ, ngập tràn hương sắc. Chăm chút, nâng niu từng con chữ với sự trân trọng thiên nhiên vô hạn, nhà thơ Lê Quốc Hán đã giúp người đọc thích thú với các ngẫu văn “Hoa và người”, “Muỗng và xoài”, “Huyền thoại sen”, “Sự tích cây bạch đàn”… “Hoa sen được xem là cao quý vì dù sống giữa vũng nước tù đọng và bẩn đục, bông sen vẫn nguyên vẹn trắng trong thanh khiết. Người Việt Nam và Nhật Bản xem hoa sen là biểu tượng, là hình ảnh của những người dân thường sống giữa xã hội đầy đê tiện vẫn giữ được tâm hồn thanh sạch. Nó khác với các loài hoa khác muốn giữ được mình phải lui về nơi hoang vắng như lau hay ẩn cư như cúc. Cao quý như vậy, hoa sen thường được dâng lên bàn thờ gia tiên ngày đầu tháng hay được dâng lên bàn thờ Phật mỗi ngày. Hình ảnh hoa sen được trang trí trên các họa tiết nơi đình chùa, miếu mạo thiêng liêng…” (Ký ức sen).

Vốn đã thành công trên lĩnh vực bình thơ, nhà thơ Lê Quốc Hán đã dẫn dắt người đọc vào những ngẫu văn đẹp, hào hoa trong Xuân không mùa với thi sĩ Xuân Diệu: “Hơn nửa thế kỷ trôi qua, hình ảnh Chàng Xuân lên xe rồi còn đưa tay vẫy vẫy, như muốn níu mùa xuân trở lại”; cuốn hút người đọc vào cõi thơ của Huy Cận (Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm), của Hàn Mặc Tử (Hành hương theo dấu chân Hàn Mặc Tử), của Nguyễn Bính (Hậu tương tư), của Trinh Đường, Thái Doãn Hiếu (Người tìm trầm).

Từ tác phẩm “Hai phía chân dung” của nhà thơ Lê Quốc Hán, chúng tôi càng hiểu và tôn quý nhiều hơn miền đất Hà Tĩnh, Nghệ An, nơi đã xuất hiện nhiều danh nhân trên nhiều lĩnh vực, trong đó ông Lê Quốc Hán đã sống, đã yêu rất da diết, thiết tha quê nhà đất và người, đã cống hiến hết mình vì sự nghiệp toán học, văn chương; xứng đáng với tình cảm mà bạn đọc trong ngoài nước hướng về ông.

Chúng tôi đồng cảm, đồng tình sâu sắc với nhận xét của nhà thơ Trần Nam Phong về tác giả “Hai phía chân dung”: “Nhà thơ Lê Quốc Hán nói về đạo và đời, lịch sử và thi ca với một kiến thức uyên thâm, phong thái dung dị và có một cái gì đó nhẹ hẫng như không.

Vâng, tôi hiểu để đạt được cảnh giới này, nhà thơ đã đi qua một chặng dài trên hành trình sống, trải nghiệm và viết, nối cái hữu hạn kiếp người với vô biên trời đất và vũ trụ tâm linh.”

Huế 19/5/2021

V.Q  
(TCSH389/07-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.