“Gác Trịnh”- lung linh nắng thủy tinh vàng...

09:25 09/07/2013

PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO

Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô  Huế mà khám phá tiếp  nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy  cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.

Nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc - TBT Tạp chí Sông Hương - giới thiệu về Gác Trịnh

Tôi là người luôn ái mộ cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và bao năm luôn mê mẩn với các ca khúc nhạc Trịnh, nghe nói vậy thì sướng quá rồi. Thật may mắn vì chúng tôi lại cùng đi với nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo, người nhạc sỹ bao năm nặng lòng với Huế và có nhiều kỷ niệm gắn bó với cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Thế là anh hào hứng  đưa  chúng tôi đến thăm Gác Trịnh” ngay lập tức. Cùng đi với chúng tôi có nhà thơ trẻ Vũ Thiên Kiều đến từ Kiên Giang và một nhà thơ trẻ đến từ Ninh Thuận. Chúng tôi háo hức cùng nhau đi đến con phố có hai hàng long não cổ thụ tỏa rợp bóng mát với tán lá xanh mỡ màng, ấy là con phố mang tên Nguyễn Trường Tộ của thành phố Huế và dừng lại ở căn nhà 11/3 ở địa chỉ 203/19 .

Tôi thực sự xúc động bởi khi quan sát căn “Gác Trịnh” nẳm ở tầng hai  vẫn như còn đủ đầy cái  dáng dấp của một thuở nghèo nàn gắn với người nghệ sỹ tài hoa  khi xưa mà những tình khúc bất hủ của ông luôn làm say đắm lòng người. Bây giờ “Gác Trịnh” đã trở thành nơi lưu giữ một vài kỷ vật và là một không gian văn hóa nho nhỏ để trưng bày một số bức tranh, ảnh kỷ niệm về ông và là nơi gặp gỡ của các văn nghệ sỹ và bạn bè yêu mến và luôn ngưỡng mộ nhạc Trịnh.

Chúng tôi cùng những người bạn thơ đang lặng lẽ quan sát và cùng nhau chụp một vài bức hình lưu niệm tại nơi đây. Bên tai tôi bất chợt hiện lên những giai điệu âm nhạc trữ tình đầy triết lý về cuộc đời và như đâu đây vẫn còn lãng đãng khói sương của “Một cõi đi về”:

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi xuống trăm năm một cõi đi về…”( Một cõi đi về)


Vẫn còn nguyên chiếc ghế gỗ mun cũ kỹ, chiếc ghế gắn liền với những kỷ niệm của Trịnh Công Sơn cùng với những người bạn là họa sỹ Bửu Chí và Đình Cường mà họ từng ngồi vẽ tranh chung. Bên cạnh là chiếc đàn ghi ta, hình ảnh của người nghệ sỹ lang thang. Không gian Gác Trịnh, nơi mà trước kia người nhạc sỹ đa tình Trịnh Công Sơn thường ngồi uống cà phê hay ngồi nhâm nhi từng li rượu cùng bạn bè và thả tầm mắt để trông ngóng xuống con đường bốn mùa đầy mưa nắng:

“Gọi nắng
Cho cơn mưa chiều
Nhiều hoa nắng bay
Nắng qua mắt buồn
Lòng hoa bướm say…”( bài Hạ Trắng)


Trong các ca khúc của ông, ta vẫn thấy hiện lên mơ hồ về hình ảnh một tà áo dài trắng thiếu nữ tự thuở xa xưa với “ Đóa hoa hồng cài lên tóc mây” hàng ngày đi học về qua cầu Phú Cam và  nỗi đợi chờ của chàng  nhạc sỹ  Trịnh thời trai trẻ vẫn còn tha thiết cho đến khi “Trời ươm nắng cho mây hồng” chăng?

Ngồi nơi Gác Trịnh để nhìn xuống đường thật thú vị. Dẫu dòng người có tất tả ngược xuôi hay lặng lẽ qua lại ở bên dưới thì nhịp sống nơi đây vẫn lãng mạn bởi con đường in đầy bóng lá và màu xanh nõn nà của loài cây Long Não vẫn ánh lên những đốm nắng . Trong cõi dịu dàng và trầm tư ấy, chắc hẳn là nơi khơi nguồn để Trịnh Công Sơn viết nên nhiều ca khúc để đời về tình yêu và cuộc sống, về cõi người trầm luân với cả niềm hạnh phúc lẫn khổ đau.

“Một đêm bước chân về gác nhỏ
Chợt nhớ đóa hoa tường vi…”- ( Đêm thấy ta là thác đổ)


Tình yêu quê hương đất nước trong nhiều ca khúc của ông luôn gắn liền từ nơi đây với những nỗi niềm dân tộc người Việt da vàng và ngay cả từ thân phận của những con người bình dị nhất với cả sự hạnh phúc hay vô vọng. Dù có thế nào, nơi đây cũng luôn ngời lên thứ ánh sáng tuyệt diệu:

“Lung linh nắng thủy tinh vàng
Chợt buồn, hồn dâng mênh mang
Chiều đã đi vào vườn mắt ai?”  ( bài Nắng thủy tinh)


Huế là nơi quê hương sông nước hữu tình đầy sự ngọt ngào, sâu lắng mà ông thường đi về sau những ngày tháng “ Ở Trọ” nơi thành phố phương Nam. Ông là người nghệ sỹ nghèo những có tâm hồn vô cùng rộng mở và bao dung. Chúng ta không thể quên những ca từ hết sức độc đáo và những giai điệu với vẻ đẹp lãng đãng mà da diết trong âm nhạc của ông. Ngôn từ trong thơ của ông cũng khá đặc biệt, phong phú và mang đậm sắc thái triết lý trước vũ trụ. Sự tinh tế và óc tài hoa ấy của nhạc Trịnh luôn được trải dài và ngân rung trong muôn giai điệu trữ tình và không giống với bất cứ ai. Những ca từ trong các ca khúc của ông còn mang đậm màu sắc Phật Giáo và tâm linh có lẽ cũng được khởi nguồn từ vùng đất Huế linh thiêng. Ông hay nói về kiếp người, dẫu cho sự sống và cái chết là những điều rất mong manh:

“Sống chết có mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non”

Ngay cả trong sự lãng mạn và mê đắm giữa cõi thực và cõi mơ, Trịnh Công Sơn cũng luôn phải lang thang và lăn lóc trong cõi người và cõi đời dằng dặc đầy thăng trầm:

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi mệt nhoài…”


Ông đã  thổi hồn vào từng ca khúc với những ngôn từ đẹp và lãng đãng và bất cứ ở đâu, ngay khi bắt gặp  những con người cần lao trong thơ và nhạc của ông, ta cũng thấy lấp lánh một vẻ đẹp u  buồn:

“Người phu quét lá bên đường
Quét cả nắng  hồng, quét hạ buồn tênh…” ( Góp lá mùa xuân)


Có lẽ thế mà trong nhiều ca khúc của ông, chúng  ta luôn thấy hình ảnh lãng đãng của sông nước, sự huyền bí của cỏ cây, sự vô thường của hoa lá. Ngay tại con phố của “Gác Trịnh” bây giờ ta vẫn hình dung đâu đó có thấp thoáng bóng dáng tà áo dài của cô nữ sinh Đồng Khánh trong “Diễm Xưa” năm nào với “đường dài hun hút cho mắt thêm sâu”của ông.  

“Trên bước chân em
Âm thầm lá đổ
Chợt nghe rét buốt
Cho mình xót xa…”


Thơ và nhạc của Trịnh Công Sơn đầy tính triết lý giữa muôn vàn những cặp phạm trù đối nghịch. Ấy là: vui và buồn, yêu thương và tuyệt vọng, sự sống và cái chết, hạnh phúc và đau khổ,  gần và xa, nhớ và quên, vơi và đầy, đi và về…như sự xoay vần bốn mùa của vũ trụ:

“Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng…”( Một cõi đi về)


Sự trăn trở vui buồn, những nốt nhạc muôn thuở của cõi người còn là những phút bất ngờ đầy ảo ảnh và huyền diệu nhất của tình yêu:

“Tình ngỡ đã phôi pha
Nhưng tình vẫn còn đầy
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều
Như từng cơn nước rộng
Xóa một ngày đìu hiu…”


Có lẽ ở nơi này, vùng đất cố đô Huế với những lăng tẩm Vua chúa và ngôi Chùa Thiên Mụ nổi tiếng với bao địa danh Xứ Huế đã đi vào trong thơ và thấm đẫm trong từng giai điệu nhạc Trịnh. Khi ông viết những ca khúc da diết và u buồn về thân phận con người và đến nay ai cũng có thể hát lên đôi câu nào đó và trở thành những tác phẩm để đời trong lòng công chúng.

Mưa vẫn bay bay trên tầng tháp cổ
Dài theo em mãi khóe mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua”


Tình yêu con người và thiên nhiên hòa quện nhuần nhuyễn trong thơ và nhạc Trịnh Công Sơn với những chất chứa mong manh, ngay cả khi “Ta mang cho em một đóa quỳnh”. Ông đã để cho đêm nở ra và khép lại những đóa đời trắng ngần và thanh khiết dưới  ánh trăng:

“Đêm, này đêm
Buồn bã với những môi hôn
Trong vườn trăng
Vừa khép những đóa mong manh” -( Bài Quỳnh  Hương)


Hình ảnh những người con gái hay những người phụ nữ trong thơ và nhạc Trịnh luôn được ông nâng niu và trân trọng với lòng ngưỡng mộ thật đẹp và vô cùng ám ảnh:

“Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi…”- Bài Như cánh vạc bay)


Và khi mùa về, lời ru tình ngọt ngào vẫn say đắm để người nghệ sỹ  “Xin mãi ăn năn mà thôi”:

“Thôi ngủ đi em
Anh ru em ngủ
Tay em kết nụ
Ru trọn một đời
Ru một đời người
- ( bài “Ru em từng ngón xuân nồng)

Cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã mất từ năm 2011, đến nay đã trôi qua 12 năm, một vòng thời gian khá dài  mà ta tưởng như vừa mới hôm nào. Lời nhắn nhủ của người nghệ sỹ tài hoa như vẫn còn bàng bạc quanh ta một nét thiền nào đó bên sự linh thiêng của sông Hương núi Ngự:

“Cuộc đời đó
Có bao lâu
Mà hững hờ..”


Đó là sự dịu dàng và trầm tư, thanh thoát mà lãng mạn của những giai điệu nhạc Trịnh mang đậm nét văn hóa Huế. Ông  mãi là niềm tự hào của Xứ Huế về nơi cội nguồn đã sinh ra một con người tài hoa . Trịnh Công Sơn  một người con của Xứ Huế đa tình và mộng mơ, phiêu du và lãng tử, một nhà thơ và nhạc sỹ tên tuổi  mà Xứ Huế luôn mãi tự hào.

Trịnh Công Sơn từng có một thời tuổi thanh xuân gắn bó nơi đây với dòng chảy của nét văn hóa sông Hương thơ mộng. Vẻ đẹp ấy còn trở nên linh thiêng trước những lăng tẩm rêu phong, những thành quách trầm mặc của cố đô Huế. Những nét văn hóa làng quê nơi Ngự Bình, Kim Long, thôn Vỹ…, nơi mà dòng chảy sông Hương được giao hòa và đan xen với nét văn hóa cung đình để tạo nên những trầm tích văn hóa của Huế xưa.

Thăm Gác Trịnh, nhớ về một con người tài hoa để thêm yêu đời, yêu người và để thấy cuộc đời đáng sống hơn:

“Hãy ru nhau trên những lời gió mới
Hãy yêu nhau đi cho gạch đá có tin vui
Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi
Dù mai nơi này người có xa người…” ( bài Hãy yêu nhau đi)


“Gác Trịnh”, bây giờ không chỉ là nơi lưu giữ những hình ảnh và những kỷ vật lưu niệm của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn khi xưa  mà nó đã trở thành ngôi nhà ấm cúng để gặp gỡ, giao lưu của giới văn nghệ sỹ và những người yêu nghệ thuật, yêu văn chương, thi ca, nhạc họa và những ước mơ, những kỷ niệm gắn liền với tình yêu nhạc Trịnh. Gác Trịnh luôn gợi nhớ về ngôi nhà của người nghệ sỹ tài hoa với một thời tuổi trẻ và những khát khao với đam mê và sáng tạo không ngừng của một người con xứ Huế.

(Kỷ niệm Gác Trịnh và Huế tháng 6/2013)
P.T.P.T

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CHÂU THU HÀ

    Trong những năm qua, xây dựng văn hóa doanh nghiệp (VHDN) đã và đang được các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng quan tâm thực hiện.

  • PHƯỚC VĨNH

    Nói đến những tiềm năng phát triển của Huế là nói đến các yếu tố thiên nhiên, lịch sử văn hóa, trong đó có yếu tố sông, núi, cỏ cây và con người; là nhắc đến những bài thơ sâu lắng, những giai điệu mượt mà…

  • LGT: Cuốn sách Florette ou la rivière des parfums của tác giả T. Trilby(*) được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chuyện bên dòng sông Hương(**). Bối cảnh câu chuyện xảy ra ở Huế và vùng phụ cận vào thập niên 1920 của thế kỷ XX.

  • PHAN THUẬN AN

    Nghệ thuật cung đình là những loại hình nghệ thuật gắn bó thiết thân với sinh hoạt tinh thần và vật chất của giới cầm quyền tại kinh đô dưới các triều đại quân chủ ngày xưa.

  • PHAN TÂN

    Trong năm 2018 vừa qua, ngoài kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh cũng đã triển khai những chương trình đột phá, công trình trọng điểm, tập trung lãnh đạo, tạo tiền đề, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển theo hướng nhanh, bền vững. Các chương trình này có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương…

  • NGUYỄN VĂN CƯƠNG - NGUYỄN VĂN KHÁNH

    Trong chuyến đi điền dã khảo sát di tích tại khu vực Phường Thủy Xuân, TP Huế. Chúng tôi tình cờ phát hiện một di chỉ cổ nằm lẫn khuất trong những tán cây rậm rạp trên vườn đồi của làng Dương Xuân thượng trước đây. Vạch lá dò dẫm tìm vào, chúng tôi mới nhận ra nơi mình đặt chân đến chính là một Văn Miếu, nơi thờ phụng vị Thánh về Văn, người mà được hậu thế tôn vinh là Vạn thế Sư biểu (người thầy của muôn đời), Đức Khổng Tử. Ngôi miếu nằm lọt thỏm trong những tán lá, bụi cây. 

  • HỒ VĨNH

    Đại bác là một từ dùng chung cho tất cả các loại trọng pháo hay súng lớn. Tiền thân của chúng là những máy ném đá (Thạch pháo) ra đời cách đây 1.000 năm. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII ở Việt Nam đã xuất hiện các loại pháo bằng đồng và pháo bằng sắt mà ngày nay chúng ta thường gọi là súng thần công.

  • KIM THOA

    Chè bán ban ngày, ban đêm. Chè gánh, chè xách, chè ăn trên bờ, chè thưởng thức dưới đò. Huế bán đủ thứ chè, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, nhưng ít thấy chè hột sen.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Hoàng tử Cảnh (1780 -1801) là con trưởng của vua Gia Long. Trong thời gian chống nhà Tây Sơn, hoàng tử Cảnh đã theo Bá-đa-lộc sang Pháp cầu viện cho họ Nguyễn. Hoàng tử Cảnh theo Thiên chúa giáo và được giám mục Bá-đa-lộc rất thương yêu.

  • THƠM QUANG - THANH BIÊN

    Trong khối tài liệu hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV có khá nhiều tư liệu liên quan đến trường Bách Công xưa (tức trường Cao đẳng Công nghiệp Huế ngày nay). Bên cạnh tài liệu tiếng Pháp thuộc phông Tòa Khâm sứ Trung kỳ, chúng tôi cũng xin được cung cấp thêm một số thông tin quan trọng về trường Bách Công xưa được ghi chép trong các bộ chính sử của triều Nguyễn.

  • NGUYỄN THÁI SƠN*     

    Đồng chí Nguyễn Chí Diểu (1908 - 1939) là nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.

  • TRẦN ĐÌNH HẰNG - LÊ ĐÌNH HÙNG  

    Trải qua nhiều vấn nạn của thiên tai, địch họa mà đến nay, tài liệu nghiên cứu về thời chúa Nguyễn Đàng Trong rất hiếm hoi. Vì vậy, tài liệu lưu trữ từ gia tộc sẽ góp phần thiết thực để soi rọi một số chi tiết bổ sung cho chính sử.

  • LÊ VĂN LÂN

    Huế là đô thị không chỉ trong nước mà cả thế giới tôn vinh với nhiều danh hiệu cao quý. Nhưng đứng trước những danh hiệu này, bản thân người Huế cũng thấy đang còn nhiều khoảng cách lớn.

  • LÊ QUANG THÁI

    Ngày xuân còn dài, xin kể vài mẫu chuyện dê tiêu biểu trên đất kinh kỳ văn vật cốt chỉ mua vui chốc lát trong hương vị của ngày Tết cổ truyền.

  • PHAN THUẬN AN

    Cũng như các triều đại quân chủ khác trong lịch sử Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đã lập ra tại kinh đô một cơ quan chuyên trách về y tế, gọi là Thái Y Viện, để chăm lo sức khỏe cho hoàng gia và điều hành công việc chữa bệnh cho mọi người trong nước.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Đồi Dương Xuân ở nam sông Kim Trà (sông Hương) từng có phủ Dương Xuân là mặc định nhưng vì đồi lại lớn rộng, có nhiều phần nhấp nhô theo phương thẳng đứng, uốn éo theo bình đồ nên đồi có nhiều gò, cồn. 

  • TRẦN ANH SƠN

    Huế mà chúng tôi nhắc đến ở đây là xứ Huế ngày xưa, thuở còn là "Đô thành Thuận Hóa” của Chúa Nguyễn.

  • CAO CHÍ HẢI  

    Nghệ thuật sân khấu, âm nhạc vô cùng phong phú và đặc sắc, nhiều lễ hội cổ truyền và thuần phong mỹ tục tiêu biểu của người Việt được lưu truyền đến Nghệ thuật múa của dân tộc Việt xuất hiện cách đây khoảng 4000 năm.