PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô Huế mà khám phá tiếp nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.
Nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc - TBT Tạp chí Sông Hương - giới thiệu về Gác Trịnh
Tôi là người luôn ái mộ cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và bao năm luôn mê mẩn với các ca khúc nhạc Trịnh, nghe nói vậy thì sướng quá rồi. Thật may mắn vì chúng tôi lại cùng đi với nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo, người nhạc sỹ bao năm nặng lòng với Huế và có nhiều kỷ niệm gắn bó với cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Thế là anh hào hứng đưa chúng tôi đến thăm Gác Trịnh” ngay lập tức. Cùng đi với chúng tôi có nhà thơ trẻ Vũ Thiên Kiều đến từ Kiên Giang và một nhà thơ trẻ đến từ Ninh Thuận. Chúng tôi háo hức cùng nhau đi đến con phố có hai hàng long não cổ thụ tỏa rợp bóng mát với tán lá xanh mỡ màng, ấy là con phố mang tên Nguyễn Trường Tộ của thành phố Huế và dừng lại ở căn nhà 11/3 ở địa chỉ 203/19 .
Tôi thực sự xúc động bởi khi quan sát căn “Gác Trịnh” nẳm ở tầng hai vẫn như còn đủ đầy cái dáng dấp của một thuở nghèo nàn gắn với người nghệ sỹ tài hoa khi xưa mà những tình khúc bất hủ của ông luôn làm say đắm lòng người. Bây giờ “Gác Trịnh” đã trở thành nơi lưu giữ một vài kỷ vật và là một không gian văn hóa nho nhỏ để trưng bày một số bức tranh, ảnh kỷ niệm về ông và là nơi gặp gỡ của các văn nghệ sỹ và bạn bè yêu mến và luôn ngưỡng mộ nhạc Trịnh.
Chúng tôi cùng những người bạn thơ đang lặng lẽ quan sát và cùng nhau chụp một vài bức hình lưu niệm tại nơi đây. Bên tai tôi bất chợt hiện lên những giai điệu âm nhạc trữ tình đầy triết lý về cuộc đời và như đâu đây vẫn còn lãng đãng khói sương của “Một cõi đi về”:
“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi xuống trăm năm một cõi đi về…”( Một cõi đi về)
Vẫn còn nguyên chiếc ghế gỗ mun cũ kỹ, chiếc ghế gắn liền với những kỷ niệm của Trịnh Công Sơn cùng với những người bạn là họa sỹ Bửu Chí và Đình Cường mà họ từng ngồi vẽ tranh chung. Bên cạnh là chiếc đàn ghi ta, hình ảnh của người nghệ sỹ lang thang. Không gian Gác Trịnh, nơi mà trước kia người nhạc sỹ đa tình Trịnh Công Sơn thường ngồi uống cà phê hay ngồi nhâm nhi từng li rượu cùng bạn bè và thả tầm mắt để trông ngóng xuống con đường bốn mùa đầy mưa nắng:
“Gọi nắng
Cho cơn mưa chiều
Nhiều hoa nắng bay
Nắng qua mắt buồn
Lòng hoa bướm say…”( bài Hạ Trắng)
Trong các ca khúc của ông, ta vẫn thấy hiện lên mơ hồ về hình ảnh một tà áo dài trắng thiếu nữ tự thuở xa xưa với “ Đóa hoa hồng cài lên tóc mây” hàng ngày đi học về qua cầu Phú Cam và nỗi đợi chờ của chàng nhạc sỹ Trịnh thời trai trẻ vẫn còn tha thiết cho đến khi “Trời ươm nắng cho mây hồng” chăng?
Ngồi nơi Gác Trịnh để nhìn xuống đường thật thú vị. Dẫu dòng người có tất tả ngược xuôi hay lặng lẽ qua lại ở bên dưới thì nhịp sống nơi đây vẫn lãng mạn bởi con đường in đầy bóng lá và màu xanh nõn nà của loài cây Long Não vẫn ánh lên những đốm nắng . Trong cõi dịu dàng và trầm tư ấy, chắc hẳn là nơi khơi nguồn để Trịnh Công Sơn viết nên nhiều ca khúc để đời về tình yêu và cuộc sống, về cõi người trầm luân với cả niềm hạnh phúc lẫn khổ đau.
“Một đêm bước chân về gác nhỏ
Chợt nhớ đóa hoa tường vi…”- ( Đêm thấy ta là thác đổ)
Tình yêu quê hương đất nước trong nhiều ca khúc của ông luôn gắn liền từ nơi đây với những nỗi niềm dân tộc người Việt da vàng và ngay cả từ thân phận của những con người bình dị nhất với cả sự hạnh phúc hay vô vọng. Dù có thế nào, nơi đây cũng luôn ngời lên thứ ánh sáng tuyệt diệu:
“Lung linh nắng thủy tinh vàng
Chợt buồn, hồn dâng mênh mang
Chiều đã đi vào vườn mắt ai?” ( bài Nắng thủy tinh)
Huế là nơi quê hương sông nước hữu tình đầy sự ngọt ngào, sâu lắng mà ông thường đi về sau những ngày tháng “ Ở Trọ” nơi thành phố phương Nam. Ông là người nghệ sỹ nghèo những có tâm hồn vô cùng rộng mở và bao dung. Chúng ta không thể quên những ca từ hết sức độc đáo và những giai điệu với vẻ đẹp lãng đãng mà da diết trong âm nhạc của ông. Ngôn từ trong thơ của ông cũng khá đặc biệt, phong phú và mang đậm sắc thái triết lý trước vũ trụ. Sự tinh tế và óc tài hoa ấy của nhạc Trịnh luôn được trải dài và ngân rung trong muôn giai điệu trữ tình và không giống với bất cứ ai. Những ca từ trong các ca khúc của ông còn mang đậm màu sắc Phật Giáo và tâm linh có lẽ cũng được khởi nguồn từ vùng đất Huế linh thiêng. Ông hay nói về kiếp người, dẫu cho sự sống và cái chết là những điều rất mong manh:
“Sống chết có mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non”
Ngay cả trong sự lãng mạn và mê đắm giữa cõi thực và cõi mơ, Trịnh Công Sơn cũng luôn phải lang thang và lăn lóc trong cõi người và cõi đời dằng dặc đầy thăng trầm:
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi mệt nhoài…”
Ông đã thổi hồn vào từng ca khúc với những ngôn từ đẹp và lãng đãng và bất cứ ở đâu, ngay khi bắt gặp những con người cần lao trong thơ và nhạc của ông, ta cũng thấy lấp lánh một vẻ đẹp u buồn:
“Người phu quét lá bên đường
Quét cả nắng hồng, quét hạ buồn tênh…” ( Góp lá mùa xuân)
Có lẽ thế mà trong nhiều ca khúc của ông, chúng ta luôn thấy hình ảnh lãng đãng của sông nước, sự huyền bí của cỏ cây, sự vô thường của hoa lá. Ngay tại con phố của “Gác Trịnh” bây giờ ta vẫn hình dung đâu đó có thấp thoáng bóng dáng tà áo dài của cô nữ sinh Đồng Khánh trong “Diễm Xưa” năm nào với “đường dài hun hút cho mắt thêm sâu”của ông.
“Trên bước chân em
Âm thầm lá đổ
Chợt nghe rét buốt
Cho mình xót xa…”
Thơ và nhạc của Trịnh Công Sơn đầy tính triết lý giữa muôn vàn những cặp phạm trù đối nghịch. Ấy là: vui và buồn, yêu thương và tuyệt vọng, sự sống và cái chết, hạnh phúc và đau khổ, gần và xa, nhớ và quên, vơi và đầy, đi và về…như sự xoay vần bốn mùa của vũ trụ:
“Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng…”( Một cõi đi về)
Sự trăn trở vui buồn, những nốt nhạc muôn thuở của cõi người còn là những phút bất ngờ đầy ảo ảnh và huyền diệu nhất của tình yêu:
“Tình ngỡ đã phôi pha
Nhưng tình vẫn còn đầy
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều
Như từng cơn nước rộng
Xóa một ngày đìu hiu…”
Có lẽ ở nơi này, vùng đất cố đô Huế với những lăng tẩm Vua chúa và ngôi Chùa Thiên Mụ nổi tiếng với bao địa danh Xứ Huế đã đi vào trong thơ và thấm đẫm trong từng giai điệu nhạc Trịnh. Khi ông viết những ca khúc da diết và u buồn về thân phận con người và đến nay ai cũng có thể hát lên đôi câu nào đó và trở thành những tác phẩm để đời trong lòng công chúng.
“Mưa vẫn bay bay trên tầng tháp cổ
Dài theo em mãi khóe mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua”
Tình yêu con người và thiên nhiên hòa quện nhuần nhuyễn trong thơ và nhạc Trịnh Công Sơn với những chất chứa mong manh, ngay cả khi “Ta mang cho em một đóa quỳnh”. Ông đã để cho đêm nở ra và khép lại những đóa đời trắng ngần và thanh khiết dưới ánh trăng:
“Đêm, này đêm
Buồn bã với những môi hôn
Trong vườn trăng
Vừa khép những đóa mong manh” -( Bài Quỳnh Hương)
Hình ảnh những người con gái hay những người phụ nữ trong thơ và nhạc Trịnh luôn được ông nâng niu và trân trọng với lòng ngưỡng mộ thật đẹp và vô cùng ám ảnh:
“Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi…”- Bài Như cánh vạc bay)
Và khi mùa về, lời ru tình ngọt ngào vẫn say đắm để người nghệ sỹ “Xin mãi ăn năn mà thôi”:
“Thôi ngủ đi em
Anh ru em ngủ
Tay em kết nụ
Ru trọn một đời
Ru một đời người - ( bài “Ru em từng ngón xuân nồng)
Cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã mất từ năm 2011, đến nay đã trôi qua 12 năm, một vòng thời gian khá dài mà ta tưởng như vừa mới hôm nào. Lời nhắn nhủ của người nghệ sỹ tài hoa như vẫn còn bàng bạc quanh ta một nét thiền nào đó bên sự linh thiêng của sông Hương núi Ngự:
“Cuộc đời đó
Có bao lâu
Mà hững hờ..”
Đó là sự dịu dàng và trầm tư, thanh thoát mà lãng mạn của những giai điệu nhạc Trịnh mang đậm nét văn hóa Huế. Ông mãi là niềm tự hào của Xứ Huế về nơi cội nguồn đã sinh ra một con người tài hoa . Trịnh Công Sơn một người con của Xứ Huế đa tình và mộng mơ, phiêu du và lãng tử, một nhà thơ và nhạc sỹ tên tuổi mà Xứ Huế luôn mãi tự hào.
Trịnh Công Sơn từng có một thời tuổi thanh xuân gắn bó nơi đây với dòng chảy của nét văn hóa sông Hương thơ mộng. Vẻ đẹp ấy còn trở nên linh thiêng trước những lăng tẩm rêu phong, những thành quách trầm mặc của cố đô Huế. Những nét văn hóa làng quê nơi Ngự Bình, Kim Long, thôn Vỹ…, nơi mà dòng chảy sông Hương được giao hòa và đan xen với nét văn hóa cung đình để tạo nên những trầm tích văn hóa của Huế xưa.
Thăm Gác Trịnh, nhớ về một con người tài hoa để thêm yêu đời, yêu người và để thấy cuộc đời đáng sống hơn:
“Hãy ru nhau trên những lời gió mới
Hãy yêu nhau đi cho gạch đá có tin vui
Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi
Dù mai nơi này người có xa người…” ( bài Hãy yêu nhau đi)
“Gác Trịnh”, bây giờ không chỉ là nơi lưu giữ những hình ảnh và những kỷ vật lưu niệm của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn khi xưa mà nó đã trở thành ngôi nhà ấm cúng để gặp gỡ, giao lưu của giới văn nghệ sỹ và những người yêu nghệ thuật, yêu văn chương, thi ca, nhạc họa và những ước mơ, những kỷ niệm gắn liền với tình yêu nhạc Trịnh. Gác Trịnh luôn gợi nhớ về ngôi nhà của người nghệ sỹ tài hoa với một thời tuổi trẻ và những khát khao với đam mê và sáng tạo không ngừng của một người con xứ Huế.
(Kỷ niệm Gác Trịnh và Huế tháng 6/2013)
P.T.P.T
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.