“Đi” và “Về” trong tập thơ “Ma thuật ngón” (1) của Trần Tuấn

16:34 02/10/2009
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

Ảnh: vtc.vn

Mô típ “đi” của “đôi chân”, “bàn chân” trở đi trở lại trong tập thơ, được biểu hiện sáng rõ nhất trong bài “Nhói trắng” mở đầu tập thơ. Cách đây dăm năm, nghĩ nhan đề cho một bài báo, cuối cùng tôi tìm được câu châm ngôn của Brecht: “Con người không có rễ, nó có hai bàn chân”, tôi lấy làm đắc ý với nhan đề này. Với hai bàn chân, con người đi từ vùng này đến vùng nọ, từ nước này sang nước khác, vượt qua những đại dương, châu lục, mở rộng tầm nhìn và chân trời văn hoá... Trong tập thơ “Ma thuật ngón”, “đi” không phải là “xê dịch trong không gian”, đi là “hành trình” của “ý nghĩ”, của tư tưởng. Lúc “ý nghĩ chậm dần/rồi ngưng lại đâu đó”(2) cũng là lúc “đôi chân đã dừng lại bao giơ”, mỉa mai thay “người có đôi chân” cứ tưởng là “vẫn đi”. Hoá ra người ta đi “không phải bằng đôi chân”, mà bằng “bàn chân tưởng tượng”(3)“ý nghĩ”. Hình ảnh ý nghĩ - sợi bấc của Trần Tuấn khiến ta nghĩ đến hình ảnh “cây sậy nghĩ ngợi” của Pascal(4). Suy nghĩ của con người cũng mong manh như sinh mệnh của nó nhưng “không bao giờ cạn”. Trong tập thơ có những bài nói về những liều lĩnh, quẫn bách, giãy giụa, vùng thoát, tung bay... của ý nghĩ trong cuộc hành trình đầy phiêu lưu và bất trắc của nó (Ý nghĩ (1), Ý nghĩ (2), Cắt...).

Mở đầu bài thơ “Nhói trắng” là hình ảnh:
nụ hoa khẽ trắng
khi bóng đêm bắt đầu quánh đặc

Kết thúc bài thơ là ý tưởng:
người đi “không phải bằng... ngọn đèn trên tay”, “mà bằng nụ hoa nhói trắng kia”.

Độc giả sẽ suy nghĩ những “ngọn đèn” nào tác giả không tin cậy, những “nụ hoa” nào vẫy gọi “ý nghĩ” của người làm nghệ thuật trong những bước đi phiêu lưu đầy gian truân của nó. Tôi muốn hiểu “nụ hoa khẽ trắng”, “nụ hoa nhói trắng” là những khát vọng, những hy vọng, những ước mơ... của người làm nghệ thuật. Đây không phải là lý tưởng, vì lý tưởng nào cũng có tham vọng “viên mãn” của nó. Đây chỉ là những nụ hoa, mãi mãi là những nụ hoa, lúc chói “sáng nhất” vẫn là “nụ”. Lý tưởng chung của nhiều người, của mọi người. Trong sáng tác nghệ thuật, những khát vọng, những hy vọng, những ước mơ chỉ gắn với cảm hứng sáng tạo, không dính líu đến bất kỳ lợi ích “thế tục” nào ngoài sáng tác và là những cái rất riêng ở mỗi người làm nghệ thuật. Chính những “nụ hoa” này làm cho lý tưởng - nếu quả như thực sự có lý tưởng - trở nên sinh động và có hồn.

Mô típ ước mơ của những người làm thơ, của những “cái đầu mất ngủ” được thể hiện khá tinh tế trong bài “Giấc mơ sống sót”. Ước mơ với những “giấc mơ” có những gian truân của nó. Có giấc mơ lơ ngơ ở ngã tư đường “lơ đễnh bị kẹp xe mà không biết mình đã chết”. Có những “cơn mơ” chỉ còn “xác” “lưu cữu... trong những cái đầu đang tưởng mình còn sống”. Liệu có cơn mơ nào “sống sót” để nhà thơ bấu víu vào đấy ? Hoá ra hy vọng của người làm nghệ thuật, số phận những cơn mơ của nó và cả “sợi bấc” tư duy của nó... tất cả đều mong manh như thân phận và số kiếp con người.

Thế giới nghệ thuật trong bài “Giấc mơ sống sót” là một sự hòa trộn thực tại và chiêm bao (những cơn mơ). Người bán cà phê đêm đẩy mãi chiếc xe “lanh canh tiếng ly muỗng” vào “cái đầu mất ngủ” và “từ cái đầu tôi mất ngủ” “vì uống bao nhiêu đen tối vào người”, “bấy nhiêu giấc mơ bước ra”... Bài “Giấc mơ sống sót” là một bài thơ hay, thực tại thì rất “thực tại” và chiêm bao thì mon men biểu tượng “ảo giác”.

Tiêu biểu cho mô típ “về” là bài thơ “Về” (5), một trong những bài thơ hay nhất của tập thơ. Chị Trìu, người được đề tặng bài thơ - sau ba mươi mấy năm - mới đến Ba Tơ tìm được hài cốt của người anh tử sĩ đưa về quê nhà. Thời gian đã xoá sạch, không còn vết tích của bi ai. Không có cả hương khói và vong linh. Chị Trìu thầm nói với người quá cố như nói với người đang sống: “nào về thôi...”, “về thôi anh”, “...chật chội giờ anh đừng trách”... Lời lẽ hết sức đơn giản và chân thật như “chân như”. Hài cốt của người tử sĩ được định nghĩa là “anh và chiến tranh”. Thực ra chỉ còn lại “một nắm đất Ba Tơ”, nó được “xếp chung cùng với... chai nước, ổ mì khô, viên thuốc chống nôn, bộ quần áo...” trong “chiếc túi mòn” “chưa một lần được ra khỏi làng”. Trước hiện hữu hết sức đời thường này, hình ảnh người tử sĩ càng lớn:

biết lấy gì đựng linh hồn anh về được
những hàng quân vẫn đâu đó giữa đồi

Rồi thời gian sẽ lần lượt xoá những vết tích chiến tranh. Ba Tơ “đồi đồi úp bóng” vẫn như xưa. Hoạ chăng còn lại ít nhiều “phù phiếm” của chiến tranh.

H.N.H
(247/09-09)

--------------
(1) Trần Tuấn, “Ma thuật ngón” N.x.b Hội Nhà Văn 2008
(2) Như trên, tr.13
(3) Như trên, xem bài Bàn chân tưởng tượng, tr.52
(4) Pascal (1623-1662). triết gia Pháp, thấy sinh mệnh con người mong manh và yếu ớt như “cây sậy” thôi, nhưng đây là “cây sậy nghĩ ngợi” (roseau pensant)
(5) Ma thuật ngón, tr 88,89



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGLý do để có thể còn viết được những cái như là hiển nhiên rồi, thật ra có nhiều. Nói về văn thơ tức là nói về cuộc đời, về sự sống dù chỉ nói được một phần rất nhỏ của cả một vũ trụ đang trong cơn say biến đổi, mà đã thấy choáng ngợp lắm rồi.

  • THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.

  • ĐÔNG LA.     (Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nxb Văn Học")

  • NguyỄn Thu TrangNghệ thuật ẩm thực của người Việt đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt . Bàn về ẩm thực và những gì liên quan thì quá rộng, thế nên ở đây chúng tôi chỉ mạn phép bàn đến một khía cạnh nhỏ của nó mà thôi.

  • NGUYỄN NGỌC MINHNằm trong nội dung một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Tỉnh về: khảo sát thực trạng, đề xuất chủ trương giải pháp, xây dựng đội ngũ công nhân- nông dân- trí thức, tăng cường khối liên minh công- nông- trí thức ở TT- Huế.

  • LẠI NGUYÊN ÂNTrước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.

  • Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

  • Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

  • ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

  • HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.

  • NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".

  • PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

  • ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.

  • LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

  • VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.