TRẦN ĐỨC CƯỜNG(*)
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi. Đất nước thu về một mối.
Hơn 4000 liệt sĩ đã nằm lại tại Nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc từ 1979 - 1989. Máu đã loang đá, loang sông để mây bông trắng mướt, bờ cõi một dải xanh màu - Ảnh: Trường Giang
Để giành được độc lập - tự do và thống nhất cho Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã phải trải qua những năm tháng khó khăn, gian khổ với nhiều thử thách, hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho đến năm 1975.
Đất nước giành được độc lập và thống nhất nhưng thân mình đầy thương tích bởi hậu quả chiến tranh: hàng triệu người chết, hàng chục vạn người con ưu tú của dân tộc hy sinh, bị thương và chịu ảnh hưởng lâu dài của các di chứng chiến tranh, hàng ngàn thành phố, làng mạc bị tàn phá, nhiều cầu cống, đường sá và công trình công cộng bị phá hủy… Người dân Việt Nam - trong đó có hàng chục vạn người lính đã trải qua những năm tháng chiến đấu quyết liệt chống kẻ thù xâm lược, không có nguyện vọng nào hơn là xếp vũ khí lại, bắt tay xây dựng cuộc sống mới từ trong đổ nát của chiến tranh, để khôi phục thành phố và làng mạc, bệnh viện và trường học, cầu cống và đường sá, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nhưng, trên đất nước đã trải qua nhiều chiến tranh và mất mát này, cuộc sống thanh bình như ước vọng của người dân đã không trọn vẹn .Và máu lại đổ. Nhiều thành phố, làng mạc lại bị bom đạn thù cày nát. Ngay sau tháng 4 năm 1975 không lâu, nhân dân Việt Nam đã phải đối đầu với cuộc tấn công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam do quân đội Campuchia Dân chủ tiến hành với sự hỗ trợ về nhiều mặt của các thế lực bên ngoài. Và nghiêm trọng hơn, cách hôm nay vừa đúng 40 năm, rạng sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, hơn 60 vạn quân Trung Quốc với 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn với 550 xe tăng, 4 sư đoàn và trung đoàn pháo binh, phòng không với 2.559 khẩu pháo trong đó có nhiều dàn phóng hỏa tiễn bất ngờ vượt qua biên giới kéo dài 1.400km vào 6 tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu… Quân Trung Quốc đã vào sâu trong đất Lạng Sơn, Lai Châu 10 -15km, vào sâu trong đất Cao Bằng 40 - 50km.
Quân dân Việt Nam, trước hết là dân quân, du kích và bộ đội địa phương ở 6 tỉnh biên giới và tiếp đó là quân chủ lực được tăng cường đã kiên quyết chiến đấu bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân xâm lược, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự trong đó có 280 xe tăng, xe bọc thép, phá hỏng 115 khẩu pháo và súng cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí, bắt sống nhiều sĩ quan và binh lính của đội quân xâm lược.
Cuộc tấn công xâm lược Việt Nam của Trung Quốc thoạt đầu đẩy Việt Nam vào thế “lưỡng đầu thọ địch” và phải trải qua một thử thách vô cùng khó khăn do cùng lúc bị bao vây cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây. Tình hình lúc ấy có thể so sánh với thế “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước khi mới giành được độc lập năm 1945 - 1946.
Cuộc tiến công xâm lược Việt Nam của quân đội Trung Quốc làm cho thế giới sửng sốt: Từ chỗ là đồng minh trong “chiến tranh Lạnh”, nhà cầm quyền Trung Quốc đã coi Việt Nam là kẻ thù… Những người bình thường trên thế giới không ai nghĩ rằng một dân tộc vừa phải trải qua 30 năm chiến tranh với thương tích đầy mình và có biết bao nhiêu công việc phải làm để xây dựng lại đất nước lại đi khiêu khích rồi xâm lược một nước khác - lại là nước lớn hơn, thậm chí là nước đã từng là đồng minh trong hai cuộc kháng chiến trước đó, như một số người Trung Quốc cho đến nay vẫn nói rằng cuộc chiến tranh chống Việt Nam của họ chỉ là một “cuộc phản kích tự vệ”.
Ngay sau sự ngạc nhiên ấy, nhiều người đã hiểu rõ rằng, với việc phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Trung Quốc hướng vào nhiều mục tiêu sau khi đã có những thay đổi chiến lược đối ngoại trong một tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi với các quan hệ phức tạp giữa các nước lớn chủ yếu là giữa Trung Quốc với Mỹ và Liên Xô và việc Trung Quốc muốn mau chóng trở thành một thế lực mới, chi phối trước hết vùng Đông Nam Á, lấp vào chỗ trống mà Mỹ đã phải rút khỏi khu vực mang tính chiến lược này sau thất bại ở Việt Nam. Thực hiện chiến tranh xâm lược Việt Nam, bất chấp pháp lý và đạo lý, những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thúc đẩy chương trình 4 hiện đại hóa mới được khởi đầu với nhiều tham vọng…
Cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc chống Việt Nam - một quốc gia độc lập, có chủ quyền đã bị nhân dân thế giới phản đối. Chính phủ nhiều nước như Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungari, Hungari, Tiệp Khắc, Ấn Độ, Cuba, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia… cùng nhiều tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể quần chúng trên thế giới và ở Liên Xô, Hungari, Tiệp Khắc, Ấn Độ, Nhật Bản, Thụy Điển, Pháp, Mỹ, Phần Lan, Anh, Ôxtrâylia, Êtiôpi… tổ chức biểu tình, ra Tuyên bố, tổ chức hội thảo, lấy chữ ký phản đối với khẩu hiệu “Không được đụng đến Việt Nam”, đòi “nhà cầm quyền Trung Quốc rút ngay quân đội ra khỏi lãnh thổ Việt Nam”.
40 năm đã trôi qua, thế giới đã có nhiều biến đổi, trong một xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được bình thường hóa và đang trong quá trình phát triển trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, dù còn có những trở ngại cần vượt qua… Hôm nay chúng ta không có ý khoét sâu mối hận thù mà để nhắc lại một sự thật lịch sử không thể chối bỏ, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, bắt đầu từ ngày 17 tháng 2 năm 1979 và kéo dài đến tận tháng 9 năm 1989. Ở Vị Xuyên đến cuối năm 1989, quân Trung Quốc mới lần lượt rút khỏi các vị trí còn chiếm đóng trên lãnh thổ Việt Nam.
Đây cũng là dịp nhằm tôn vinh những đồng bào và chiến sĩ từng chiến đấu, hy sinh bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc; nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc và lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là của thế hệ trẻ đối với các thế hệ cha anh đã không tiếc tuổi xuân và xương máu để bảo vệ nền độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; để biết quý trọng hơn cuộc sống hòa bình hôm nay giành được qua biết bao mất mát, hy sinh. Và hơn thế nữa, rút ra những bài học lịch sử cho thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau: luôn tăng cường đoàn kết, xây dựng đất nước giàu mạnh đủ sức đối phó với mọi tình huống xảy ra trong một thế giới tiềm ẩn nhiều nguy cơ, bất trắc ngày nay; để cảnh giác với mọi mưu toan nhằm phá hoại cuộc sống yên bình của nhân dân, cản trở sự phát triển của Tổ quốc muôn vàn yêu quý của chúng ta.
T.Đ.C
(TCSH361/03-2019)
------------------
(*) PGS.TS., Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.
(**) Tên Hội thảo khoa học cấp quốc gia do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức ngày 15/2/2019.
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).