“Bác ơi! tim Bác mênh mông thế!”

09:11 22/10/2008
TRẦN ĐƯƠNGCuối năm 1973, đầu năm 1974, khi bắt đầu tiến hành tuyển chọn và dịch thơ của Tố Hữu ra tiếng Đức, tôi có gửi tới nhà thơ danh mục những bài cần dịch và xin ông cho ý kiến.

Từ trong nước, thông qua Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Đào Tùng, nhà thơ điện cho tôi: “Đồng ý với danh mục mà Đương đã chọn, nhưng các bài về Bác còn ít quá. Có thể bỏ bớt bài này bài khác, nhưng về Bác Hồ, Đương cố gắng dịch thêm”. Tiếp thu ý kiến của ông, ngoài hai bài “Sáng tháng Năm”“Xưa… Nay”, tôi trích dịch thêm nhiều đoạn trong trường ca “Theo chân Bác”. Khi tập thơ in ra, dưới tên “Việt , Tổ quốc tôi”, Tố Hữu tìm trong mục lục trước hết những bài thơ về Bác. Tôi thấy ông tỏ ý hài lòng. Từ đó, trong thâm tâm, tôi có ý định sẽ xin ông kể lại những hồi ức của ông về Bác.

Những câu chuyện đầu tiên về Bác mà nhà thơ Tố Hữu dành cho tôi được diễn ra ở một nơi khá đặc biệt: trên tầng cao của tháp vô tuyến truyền hình Béc-lin. Đó là buổi sáng đẹp trời tháng 7 năm 1979. Dịp ấy, ông dẫn đầu Đoàn Đại biểu Đảng ta đi dự Hội nghị các Bí thư Trung ương phụ trách công tác tư tưởng và đối ngoại của các Đảng Cộng sản thuộc hệ thống Xã hội chủ nghĩa. Lúc đó ông là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng. Tôi được điều động đi giúp việc cho Đoàn. Ngoài nhiệm vụ một phóng viên thường trú của Thông tấn xã Việt Nam, còn làm phiên dịch cùng với anh Giuy-ken Phirít-xơ, Chuyên viên Ban quan hệ quốc tế của Trung ương Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED). Đã mấy ngày tiến hành Hội nghị, nhà thơ Tố Hữu làm việc rất căng thẳng. Sau khi duyệt lại và đọc trước diễn đàn quốc tế Báo cáo của Đảng ta, ông liên tục tiếp xúc với các Đoàn bạn và chú ý theo dõi nội dung báo cáo của từng đoàn. Giờ đây, ông và các thành viên của Đoàn được bạn mời lên tháp truyền hình uống cà phê để thư giãn và ngắm toàn cảnh Béc-lin cả hai phía Đông và Tây. Trên tầng cà phê, khách có thể ngồi một giờ đồng hồ, cũng vừa đúng một vòng quay của tầng. Là phiên dịch, tôi được ngồi cùng bàn với nhà thơ Trưởng đoàn. Bên ông là đứa con gái cả tên Thanh Hoa, đang học ở Liên xô sang thăm bố.

Nhà thơ chỉ vào Hoa, vui vẻ nói với tôi:
- Cô bé này lúc mới lên ba, mình đưa nó ra sân bay đón Bác và Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ đi dự Lễ kỷ niệm lần thứ 43 Cách mạng tháng Mười tại Matxcơva về. Khung cảnh của buổi chiều ấy đúng như bài thơ “Cánh chim không mỏi” miêu tả: trời xanh, nắng rực bờ đê Sông Hồng…
Cô bé lên ba ngày ấy, giờ đã sắp tốt nghiệp đại học. Tôi đánh bạo hỏi ông:
- Có lần nào Bác Hồ đến thăm nhà thơ tại nhà riêng không?
- Nhà riêng thì không, nhưng có đến cơ quan ở Việt Bắc; lúc ấy nhà mình cũng công tác ở đấy. Bác đến, trông thấy Thanh (bà Vũ Thị Thanh – vợ ông), Bác giơ gói hạt sen lên và tươi cười hỏi: “Cô có biết thương chồng thì phải thế nào không?”. Nhà mình lúng túng mãi, không biết trả lời ra sao. Bác bảo: “Cô chẳng biết câu ca dao này à: “Thương chồng nấu cháo le le/ Nấu canh hoa lý nấu chè hạt sen…”. Nghe Bác đọc hai câu ca dao, mình rất hứng thú, đỡ lời Thanh: “Dạ, nhưng ở đây “Thương chồng chỉ có măng le/ Nấu canh rau rút nấu chè bí ngô” thôi ạ!”.
Thanh Hoa và tôi đều rất vui trước câu chuyện nhà thơ vừa kể. Tôi hỏi tiếp:
- Có một thời gian dài, nhà thơ thường vào ăn cơm chiều với Bác; Bác có kể chuyện gì không ạ?
- Ờ ờ… khi ấy, sức khỏe của Bác đã giảm sút. Trung ương không muốn Bác đi lại nhiều, và cũng không muốn Bác phải ngồi ăn một mình. Các anh khác cũng đến, nhưng thường vào ngày. Các anh biết Bác thương mình như đứa con của Người, nên dặn cố mà hỏi chuyện về đời hoạt động thời bí mật của Bác. Nhưng, Bác rất ít kể. Thời hoạt động bí mật ở các nước, hẳn có nhiều chuyện hay lắm. Song, Bác nói: “Bác đến đó làm những việc do Quốc tế Cộng sản giao, muốn biết thì hỏi Quốc tế Cộng sản!”. Hồi ở Việt Bắc, bên đống lửa sưởi trong những đêm đông giá rét, có lần Người nói một chút về chuyến bí mật rời Pháp sang Đức để qua Liên Xô. Đến ăn cơm với Người, trong bụng muốn hỏi Bác nhiều chuyện, nhưng Bác lại chủ động hỏi mình về tình hình trong nước, nhất là về chiến trường miền Nam. Cũng có nhiều lần anh Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) cùng ăn với Bác. Có lẽ, trên thế giới này, không có vị nguyên thủ nào lại ăn những món đạm bạc như thế: cá kho, cà Nghệ, canh rau…

Ở gần Tố Hữu, mới thấy ông cũng rất vui tính, khác hẳn sự tưởng tượng trước đây của tôi về ông. Cuối năm 1973, tôi đã được đi một chuyến cùng ông từ Béc-lin về Lai-pdích, rồi Đre-xđen, nhưng thời gian hơi eo hẹp và cũng mới gặp được ông lần đầu. Lần này, thời gian dài hơn và ông được đến nhiều cơ sở văn hóa ở địa phương, đặc biệt là Éc-phuốc, nơi có những nông trường chuyên trồng hoa và tiếp xúc với nhiều khu vực có các đội văn nghệ quần chúng… Trên đường đến thăm nhà Bảo tàng và mộ Béc-tôn Brếch, tôi hỏi tiếp nhà thơ những kỷ niệm xung quanh các bài thơ ông viết về Bác Hồ. Ông nói:
- Có không ít những câu thơ của mình là viết theo những suy nghĩ lớn của Bác. Như bài “Xưa… Nay” mà Đương đã dịch đấy. Trong cuộc họp của Hội đồng Chính phủ cuối năm 1954, Bác nói: “Trước kia, ta mới có rừng núi, có đêm; ngày nay ta có thêm sông, thêm biển, thêm cả ban ngày”. Từ ý ấy, mình viết: “Xưa là rừng núi, là đêm/ Giờ thêm sông biển lại thêm ban ngày”.

Vào đầu những năm 60, mình vào làm việc với Bác, có hỏi Người một số vấn đề quốc tế, trong đó sự rạn nứt nghiêm trọng trong quan hệ Xô - Trung. Quả thật, ngày ấy, rất nhiều đảng viên và những người ngoài Đảng tỏ ra lo lắng, không biết họa bi thảm này sẽ kéo dài đến bao giờ. Bác nhìn mình trầm ngâm một lát rồi thong thả nói: “Chân lý Mác - Lê nin là mặt trời, còn những sai lầm đều là những bóng mây một lúc nào thôi". Nghe lời Bác dạy, mình suy nghĩ và viết theo ý Người: "Chân lý, mặt trời soi sáng mãi/ Lỗi lầm âu cũng bóng mây qua"… Rồi khi viết bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên", mình kết thúc bằng câu "Cũng mới là bài học đầu tiên", cũng là từ một lời căn dặn của Bác. Một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, được Bác gọi vào để bàn về công tác tư tưởng, câu đầu tiên Bác hỏi mình: "Chỗ các chú đêm qua làm gì mà ầm lên thế?”. Bác hỏi như thế, nhưng Bác biết mọi người đều vui mừng khi được tin chiến thắng. Đêm ấy, thật tưng bừng, giữa đêm tối của núi rừng bỗng sáng rực những ngọn đuốc cùng tiếng vó ngựa đi báo tin vui tại các cơ quan. Bác bảo: “Đánh giặc thì phải thắng; mà thắng thì vui. Nhưng đây là nơi Trung ương đóng, phải giữ bí mật chứ!”. Rồi Bác bảo mình ngồi xuống ghế, nói tiếp: “Bác đã điện ra mặt trận khen cán bộ và chiến sĩ đánh giỏi, nhưng cũng nhắc các cấp đều không được chủ quan khinh địch. Thắng Pháp mới là trận thắng đầu. Sau Pháp, Mỹ sẽ nhảy vào. Mà đấy là một kẻ địch còn hùng mạnh hơn, hung ác hơn”.
Nhà thơ Tố Hữu nói với tôi: “Một điều rất may mắn của những người làm công tác tư tưởng là luôn luôn được sự chỉ đạo sít sao của Bác Hồ, vị lãnh tụ có tầm nhìn xa trông rộng, như một bậc tiên tri ở mỗi giai đoạn của cách mạng”.

Không chỉ tư tưởng của Bác Hồ được Tố Hữu diễn đạt trong thơ. Có lúc ông còn trích hẳn thơ Bác vào thơ mình, như: “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”, “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”, “Chống gậy lên non xem trận địa”, “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” v.v… Trong câu chuyện thật hấp dẫn của nhà thơ, tôi nhận thấy: bài thơ “Sáng tháng Năm” là bài thơ Tố Hữu tâm đắc nhất và cũng nhiều kỷ niệm nhất. Ông kể:
- Năm 1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, mình được bầu vào Trung ương Đảng, làm Ủy viên dự khuyết, được chụp ảnh cùng Bác Hồ. Nhìn thấy Bác gầy yếu, má hóp, chỉ có hai đôi mắt là rất sáng, mình thương Bác vô cùng và đặt quyết tâm làm cho được bài thơ xứng đáng về Bác, thể hiện tình cảm của toàn dân ta đối với Bác kính yêu. Tham gia Ban chấp hành Trung ương, mình được phân công phụ trách công tác tuyên truyền văn hóa, và cũng nhờ vậy, có được nhiều dịp gặp Bác Hồ hơn để nhận chỉ thị của Người. Một buổi sáng tháng Năm, Bác cho gọi mình đến nơi Bác ở. Trong buổi gặp, Bác hỏi mình: “Sao lâu nay không thấy chú làm thơ?”. Đúng là mấy năm liền, sống ở cơ quan trong rừng, mình cũng thấy chán, bèn thưa với Bác: “Dạ, ở mãi trong rừng…”. Vừa nghe mình nói thế, Bác cười: “Nên bí thơ chứ gì?”. Mình thưa tiếp: “Dạ, cũng đang làm thử một bài…”. Bác cười hồn hậu: “Thế à! Xong câu nào, đọc Bác nghe!”… Căn nhà sàn của Bác dưới một rừng cây, giữa những đồi ngô, bên một con suối đã gợi những câu thơ đầu tiên:
Vui sao một sáng tháng Năm
Đường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ
Suối dài xanh mướt nương ngô
Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn…
Trở về cơ quan, mình đã làm xong bài thơ và gửi lên dâng Bác vào đúng dịp sinh nhật Người.

Tôi nhớ, nhà văn Cuốc-Stéc-nơ có viết một câu trong bút ký “Bác Hồ, như chúng tôi đã biết” như sau: “Ngồi trước mặt chúng tôi đây là Bác Hồ, một nhà cách mạng làm thơ và đồng chí Tố Hữu, một nhà thơ làm cách mạng”… Về lần gặp Bác đầu tiên, tôi cũng từng được nghe Tố Hữu kể:
- Đầu tháng 10 năm 1945, tức là mới ba, bốn chục ngày sau Cách mạng tháng Tám, mình nhận được điện ra báo cáo công việc với Trung ương. Hồi đó, mình đang ở Huế, làm phó Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Anh Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Xứ ủy, mấy tháng trước đi họp Hội nghị Đảng, được cử vào Ban chấp hành Trung ương và đã được gặp Bác, được Bác hỏi chuyện. Mình hy vọng lần này ra Hà Nội sẽ được gặp Bác. Đến Bắc Bộ Phủ, mình gặp anh Vũ Đình Huỳnh, thư ký riêng của Bác; anh ấy nói nhỏ vào tai mình: “Hồ Chủ tịch đang đợi anh đấy!”. Mình xúc động quá, chưa hình dung như thế nào, cũng thấy ngài ngại. Lúc đó mình mới hăm lăm tuổi, được gặp vị lãnh tụ tối cao, sao không khỏi hồi hộp?

Ngày ấy, nói đến Nguyễn Ái Quốc như nói đến một quả núi, cao xa lắm, thiêng liêng lắm. Người là lãnh tụ cách mạng, nhưng cũng là một con người bình dị, gần gũi, thân thiết. Điều này về sau mình đã diễn đạt một cách hài hòa trong bài “Sáng tháng Năm”.
Lần đó, câu đầu tiên Bác hỏi mình: “Chú ra đấy à?”. Mình thưa: “Dạ!”, và nhìn Bác rõ hơn: một ông chưa già lắm (mặc dù hồi đó ai cũng gọi là Cụ), trán cao, tóc hoa râm có vẻ nghiêm nghiêm. Bác hỏi tiếp: “Chú ra bằng gì?” –“Thưa Cụ, cháu ra bằng xe ô tô” – “Xe của ai?” – “Dạ, xe của mình thôi”. Bác gặng lại, có vẻ ngạc nhiên: "Của mình, là của ai? Xe của chú à?”. Kể cũng hoảng: -“Dạ không, thưa Cụ, xe của Việt Minh”. Lúc này Bác mới cười: “Đúng rồi, xe cơ quan, chứ không phải xe các quan đâu. Nhớ nhé!”.

Đó là bài học đầu tiên mà mình trực tiếp đón nhận từ Bác Hồ. Một chuyện cụ thể, tưởng là nhỏ, nhưng ngay từ đó, sau khi giành được chính quyền, cán bộ ta rất dễ có tư tưởng mình là “quan cách mạng”, cho nên Bác nhắc nhở, không được lợi dụng của công, lấy xe cơ quan để đưa vợ đi chơi, như một thứ “quan bà, quan cậu, quan cô”… Tiếp đó, Bác hỏi về công việc mà bọn mình đang làm, như việc lo cho dân cái ăn, chỗ học, lo tuyển quân phục tiến. Bác hỏi rất cụ thể lo cái ăn như thế nào, trồng khoai, trồng sắn ở đâu? Bác dặn phải bảo vệ các vườn hoa, di tích, tổ chức các lớp “Bình dân học vụ” để xóa nạn mù chữ cho dân, tập quân sự, cảnh giác đề phòng Pháp trở lại… Bác hỏi thăm cả việc ăn, ở của bọn mình và chuyện đoàn kết với nhau, cùng nhau làm việc cho tốt. Khi xin ý kiến Bác về kinh nghiệm công tác để xây dựng và củng cố chính quyền, Bác bảo: “Cứ hỏi dân. Xem dân ưng gì, không ưng gì. Dân ưng thì làm, không ưng thì chớ làm. Làm như thế nào và cử ai làm, đều phải hỏi dân”… Những năm gần Bác, nghe Bác, đọc Bác, mình luôn luôn cảm nhận tấm lòng yêu thương dân của Bác vô cùng sâu sắc. Chính vì dân mà Người đã hy sinh hết thảy.

Nhà thơ tiếp tục kể những kỷ niệm về đời làm thơ của ông. Có một chuyện tôi được nghe ông kể tới hai lần, có cả một số cán bộ cao cấp tham gia Đoàn đại biểu Trung ương Đảng sang Đức cùng nghe:
- Cuối năm 1968, có đoàn dũng sĩ thiếu nhi miền được vào thăm Bác. Bác hỏi chuyện từng cháu, trong đó có em Nguyễn Văn Hòa, tròn 15 tuổi, quê ở Thừa Thiên, là dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ quyết thắng. Sau khi kể Bác nghe về chiến công đánh xe tăng Mỹ, em Hòa rụt rè thưa: “Cháu xin thưa với Bác một điều: cháu muốn tìm ba, nhưng không biết ba ở đâu, tên là gì?…” Bác chớp mắt rồi quay lại nói với mình: “Chú có cách gì tìm cha cháu được không?”. Mình rất thương chú bé, nhưng chưa biết có cách nào tìm được cha em. Tuy vậy, Bác bảo thì cứ vâng đã, rồi tính sau. Mình suy nghĩ mãi, và nẩy ra một cái “mẹo”: viết một bài vè về em Hòa, kể rõ tên thật, gia đình, quê hương và thành tích chiến đấu của em. Bài “Chuyện em” được đăng trên báo Nhân Dân, và chỉ mấy tuần sau đã có hồi âm: mình nhận được thư của cha em Hòa, đang làm việc trong một xí nghiệp ở Đồng Hới, Quảng Bình. Nhờ thế mà cha con được gặp nhau. Mừng quá, mình vào thưa với Bác, Bác khen.

Nhà thơ mỉm cười nói tiếp: “Được Bác khen mình còn được Bác góp ý mấy lần về thơ, như bài “Mỵ Châu”, “Đường về”… Chủ yếu là nội dung: cái nhìn bạn và thù. À, trong bài “Ta đi tới” mình có viết: “Thành phố Hồ Chí Minh, rực rỡ tên vàng”. Bác có đọc và tủm tỉm cười hỏi mình: “Ai cho phép chú đặt tên như thế?”. Mình thưa với Bác: “Không ai cho phép đâu ạ. Đó là cháu muốn nói lên nguyện vọng của đồng bào ta. Mọi người đều mong thế. Xin Bác cho phép…”.
Cũng nhân nói về những bài thơ ca ngợi Bác Hồ, tôi thưa:
- Có lẽ trường ca “Theo chân Bác” là tác phẩm hay nhất trong loạt bài nhà thơ viết về Bác?
Ông gật đầu. Rồi nói:
- Do công việc bận, hầu như những bài thơ dài của mình đều viết trong bệnh viện, vì ở đó có nhiều thời gian và tương đối yên tĩnh. “Nước non ngàn dặm” ra đời khi mình điều dưỡng trên Tam Đảo, sau chuyến đi miền và bị sốt rét. Còn “Theo chân Bác” thì được sáng tác tại một bệnh viện Liên Xô cũ… Hồi ấy mình đang nằm chữa bệnh tại Hà Nội thì một sự kiện hết sức đau thương đã xẩy ra: Bác Hồ qua đời! Trong nỗi đau đớn vô tận, mình viết “Bác ơi!”. Sau những ngày lễ tang, mình lại lên cơn sốt nặng, kéo dài hàng tháng trời mà không hề thuyên giảm. Thế là Trung ương quyết định đưa mình sang Liên Xô chạy chữa, sau khi các bác sĩ chẩn đoán, nghi mình mắc bệnh máu trắng. Ông Viện sĩ phụ trách khuyên mình “hãy kiên nhẫn”. Biết chuyện chẳng lành, mình gặng hỏi ông: “Xin đồng chí cho biết bao giờ tôi có thể ra viện?”. Ông nói với vẻ trầm ngâm: “Có thể một tháng, cũng có thể lâu hơn một chút”. Mình nghĩ, theo cách nói của thầy thuốc, số phận mình không còn dài lắm nữa. Và mình đã rút ra một kết luận cho bản thân là: phải làm được một việc gì có ích. Mình nghĩ ngay đến bài thơ dài về Bác. Bài “Bác ơi!” hôm trước là một tiếng khóc thương tiếc một cuộc đời, một con người tuyệt vời. Giờ đây, cần phải có một bài mới, tầm cỡ như một tượng đài, sao cho xứng đáng với sự nghiệp và nhân cách vĩ đại của Người. Trong những giây phút ấy, mình nghĩ đến trường ca “Lê- nin” của Mai-a-cốp-xki. Mai-a là một nhà thơ lớn của Nga, một giọng thơ hùng tráng, sắc nhọn. Nhưng, viết về bác Hồ phải khác, nên là một giọng thơ sâu lắng, ấm áp, ân tình hơn. Trong bài thơ dài này, mình sẽ kể lại những chặng đường đời oanh liệt của Bác Hồ kết hợp với những gì mình từng tích lũy về Người qua bao nhiêu năm tháng.

Có thể nói rằng, mình đã biến bệnh viện thành một phòng văn. Có điều, kỷ luật bệnh viện rất nghiêm, không cho phép ai sinh hoạt tùy tiện, mọi việc ăn ngủ phải được tuân theo giờ giấc sít sao. Thế là, cứ năm giờ sáng mình thức dậy, và viết một mạch đến 8, 9 giờ sáng, lúc đó bác sĩ mới vào khám. Về sau, mình lại trốn vào cái buồng xép là nơi để chổi và giẻ lau, lại có một cái bàn và một cái ghế nhỏ. Mình viết trong đó đến tận 12 giờ, sau khi ăn và ngủ trưa, lại viết một mạch đến tối. Làm việc như thế ròng rã 20 ngày liền, bài thơ đã tạm xong. Lòng mình cảm thấy sung sướng vô cùng, vì toàn bộ tình cảm, kỷ niệm, nghĩ suy của mình về Bác bấy lâu đã được thể hiện trên mặt giấy. Quả là bài thơ được viết ra bằng tất cả gan ruột của mình. Cũng vừa lúc bác sĩ cho mình sang khu an dưỡng. Có điều, mọi người ngạc nhiên không hiểu vì sao mình tươi cười, phấn chấn như vậy. Riêng mình, làm xong bài thơ, cũng cảm thấy không hề mệt mỏi, mà lại như khỏe ra…
                     T.Đ

(nguồn: TCSH số 219 - 05 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN PHƯƠNG TRÀĐầu năm 1961, hai mươi bốn sinh viên khóa 3 Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội chuẩn bị thi tốt nghiệp. Bắt đầu từ năm học này, sinh viên khoa ngữ văn phải làm luận án. Mỗi chúng tôi được giao làm một bản khóa luận về một vấn đề văn học, một tác giả hay một trào lưu văn học trong hoặc ngoài nước. Tôi chọn viết về Thanh Hải, Giang Nam, hai nhà thơ quen thuộc của miền Nam hồi ấy.

  • NGUYỄN THỤY KHATôi bắt đầu những dòng này về Thanh khó khăn như chính thời gian dằng dặc Thanh đã đi và sống để tìm đến những thời điểm bấm máy "độc nhất vô nhị", nhưng "khoảnh khắc vàng" mà đời người nghệ sĩ nhiếp ảnh không phải ai cũng có cơ may.

  • NGÔ MINHTrong đội ngũ các nhà thơ Việt hiện đại thế kỷ 20 đang sống ở Huế, có một nữ nhà thơ nổi tiếng thơ hay từ khi mới tuổi hai mươi, suốt mấy chục năm qua luôn được độc giả thơ cả nước ái mộ.

  • THANH THẢONgười dịch Marquez ấy chưa một lần gặp Marquez, dù anh đã từng sang tận xứ quê hương văn hào này.

  • SƠN TÙNGTôi đến sứ quán Việt Nam ở đợi vé máy bay về Bắc Kinh. Phu nhân đại biện lâm thời Tôn Quang Đẩu là bà Hải Ninh phụ trách lưu học sinh sinh viên Việt Nam tại Liên Xô, tôi là đại biểu sinh viên thuộc sự quản lý của bà khi lưu lại Mátxcơva. Cho nên được bà Hải Ninh giúp đỡ tôi như chị gái săn sóc em vậy.

  • VŨ HUẾGiải phóng đã tới năm 78, ba năm sau miền Nam nói chung và thành thị nói riêng, hàng hóa chẳng còn thứ gì “giá rẻ như bèo” (kể cả là nhà, đất). Huống gì tôi không phải hạng có tiền rủng rỉnh (ngoài lương), thành có muốn cái gì cũng khó.

  • PHONG LÊTết Dần năm 1998, vào tuổi 80, bác Kế yếu đi nhiều lắm. Sự thay đổi quá chóng khiến tôi bất ngờ.

  • HOÀNG MINH NHÂNNăm 1992, nhà thơ Lưu Trọng Lư cùng vợ là bà Tôn Lệ Minh vào Đà Nẵng thăm chơi, tôi có gặp. Lúc ấy tôi đang sưu tầm tư liệu về nhà thơ Phạm Hầu. Biết thời còn học ở Quốc Học Huế, nhà thơ Phạm Hầu rất ngưỡng mộ bà Minh, và đã làm nhiều bài thơ tình đặc sắc tặng bà.

  • TRẦN CÔNG TẤNCách nay vừa tròn 47 năm, Lê Minh Ngọc cùng chúng tôi ở chung đơn vị. Sau đó, tôi đi Mặt trận Lào. Minh Ngọc về làm hậu cần rồi đi Bắc Kinh học ngoại ngữ.

  • PHONG LÊTôi được một "cú phôn" mời dự cuộc gặp mặt của một nhóm anh em nhân ngày 20-11 và nhân 40 năm Ủy ban khoa học nhà nước.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNMùa Hè năm 2007, từ Huế chúng tôi chuẩn bị ra thăm Hà Nội lần đầu. Trên ga Huế, chờ chuyến Tàu Đỏ xuyên Việt buổi chiều, nghe một người bạn chưa bao giờ gặp là anh Văn Thành nói trong điện thoại: “Cậu hên quá! Hà Nội đang nắng gắt bỗng dưng hôm qua lại có gió mùa Đông Bắc. Bây giờ Hà Nội như mùa Thu”.

  • NGUYỄN HÀO HẢII. Người tình thứ ba của họa sĩ lớn nhất thế kỷVừa qua ở Paris đã tổ chức cuộc triển lãm bán đấu giá toàn bộ bộ sưu tập Picasso của Dora Maar gây ra một sự huyên náo trong đời sống nghệ thuật ở thành phố họa lệ này sau những tháng ngày im lìm buồn tẻ do ảnh hưởng của những cuộc khủng hoảng toàn cầu triền miên. Cuộc triển lãm này đã làm người ta nhớ lại người đàn bà thứ ba của hoạ sĩ lớn nhất thế kỷ.

  • Lập thân, lập nghiệp ở Pháp nhưng Tiến sĩ Thu Trang vẫn luôn luôn hướng về Tổ quốc. Hơn 10 năm nay bà dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu tiềm năng du lịch Việt Nam, viết sách về du lịch, tham gia giảng dạy ở nhiều lớp đào tạo cán bộ du lịch và ở khoa du lịch của một số trường đại học trong nước. Là một cộng tác viên thân thiết, tên tuổi bà đã thân thuộc với độc giả Tạp chí Sông Hương, thế nhưng ít người đọc được biết người trí thức Việt kiều yêu nước này từng là Hoa hậu Sài Gòn 1955.

  • VÕ MẠNH LẬPÔng Nguyễn Văn Thương xa quê hương làng Vân Thê, Hương Thủy TT.Huế từ hồi còn trẻ. Ông cũng như mọi con người khác, xa quê, thương cha nhớ mẹ. Xa quê là nhớ quê, đậm nét tình bờ dậu, gốc tre làng, hương hoa của đất phảng phất theo suốt chặng đường xa.

  • HOÀNG QUỐC HẢITình cờ và cũng là may mắn nữa, vào Sài Gòn lần này tôi được gặp bà góa phụ Vũ Hoàng Chương, tức bà Thục Oanh ở nhà ông Trần Mai Châu, nơi đường Tự Đức cũ. Nhà ở xế ngôi trường Trần Văn Ơn vài chục mét.

  • LTS: Nhà văn Nguyễn Đắc Xuân là một trong những người cầm bút từ Trường Sơn về đã lao vào việc nghiên cứu lịch sử văn hoá Huế và đã đạt được một số kết quả. Trong số những gì đã đạt được anh thú vị nhất là Chuyên đề Bác Hồ, thời niên thiếu ở núi Ngự sông Hương.

  • HOÀNG CẦMThư gửi người âm (nhớ thi sĩ Đặng Đình Hưng)

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHCơn cuồng lũ đã chìm về thủy phủ hơn chục ngày rồi mà những nơi nó đi qua vẫn ngổn ngang, bơ phờ xác họa. Huế vốn là một thành phố sạch đẹp với sương khói mờ nhân ảnh, thế mà giờ đây lại phải thay vào đó bằng rác rưởi, bụi bặm. Khắp phố phường ai nấy đều khẩn trương thu dọn, xử lý nhưng sức người không thể làm kịp cái khối lượng khổng lồ hậu quả thiên tai để lại.

  • HOÀNG PHƯỚCTrận lũ lịch sử đầu tháng 11 vừa qua, Thừa Thiên Huế là tỉnh bị thiệt hại rất nặng cả về người và của cải. Anh em Văn nghệ sĩ may mắn không ai mất mạng, nhưng cũng đã có trên 300 người nhà bị ngập nước, bị sập, bị tốc mái... Một số lớn những kinh sách, thư tịch, sách cổ, tranh ảnh nghệ thuật, hoành phi đối liễn, từ điển các loại, đồ sứ men lam, đàn dương cầm, nhạc cụ dân tộc, phim, máy ảnh, máy ghi hình, bản thảo, tài liệu gốc có giá trị văn hóa lịch sử, hư hỏng ẩm ướt, hoặc bị bùn đất vùi lấp, bị trôi, thiệt hại không thể tính được.

  • HOÀNG MINH TƯỜNGĐi Bình Trị Thiên hè này, tôi có hạnh phúc được hầu chuyện quá nhiều văn nhân nổi tiếng.Nhà văn Nguyễn Quang Hà, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương, ngay khi vừa đi phá Tam Giang tìm bối cảnh cho bộ phim truyền hình nhiều tập, về đến thành phố, đã tìm đến khách sạn, giao cho hai bố con tôi chiếc honda 86 và hai mũ bảo hiểm. Xăng đầy bình rồi. Cứ thế mà đi. Ông cười hiền từ chỉ hướng cho hai bố con lên đàn Nam Giao và khu đền thờ Huyền Trân Công Chúa vừa mới khánh thành.