'Trên những dặm sóng' - Ký ức người lính thủy

15:18 03/02/2023


TÔN NỮ DUNG

Tự truyện Trên những dặm sóng (Nxb. Hội Nhà văn, 2022) là tác phẩm thứ 17 của nhà văn Vĩnh Nguyên, nguyên là thủy thủ Hạm đội 171 của Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam. Trước khi có tự truyện này,  ông đã đứng tên trên  8 tập thơ (Những miền đất nhớ, Mây đá nhớ nhau, Tình yêu đâu có muộn màng, Cửa sổ nhìn ra, Bài hát dòng suối mướp, Chòi ngắm sóng, Nết, Những trái tim cắm xuống), 1 trường ca (Nhịp cầu đất nước), 3 tập bút ký (Vua trầm, Nhịp sóng xanh, Ngày Valentine tôi dông xe ra Bắc), 1 tập truyện ký (Theo thuyền đánh cá mập), 1 tập truyện ngắn (Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni) 1 tập tiểu luận phê bình (Cảm thức văn nghệ) và 1 công trình nghiên cứu 3 tập, viết chung với Nguyễn Tú (Danh nhân Quảng Bình)... Quả là một tài sản không nhỏ gồm nhiều thể loại, mà không phải bất cứ người cầm bút nào cũng có thể dễ dàng đạt được.

Vĩnh Nguyên (tên thật là Nguyễn Quang Vinh) ra đi từ làng quê Vĩnh Tuy (Vĩnh Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình), một ngôi làng được bao quanh bởi “ruộng lúa, nương ngô rộng thoáng. Núi Đầu Mâu uy nghi trầm mặc sau lưng nhà. Phía trước làng là sông Nhật Lệ trong xanh... Địa thế làng Vĩnh Tuy như con cá Gáy tọa trên quả đồi thoai thoải. Nếu con cá Gáy hóa rồng thì khi nó quẫy râu rồng có thể vắt tới thanh cầu Long Đại. Và đuôi rồng có thể đánh “bép” lên trụ cầu Quán Hàu. Từ chân cầu Quán Hàu phía bắc, có tỉnh lộ Bốn xuyên qua làng Vĩnh Tuy thì gặp con đường mòn Hồ Chí Minh đông (chỉ bốn km). Đây là chiều ngang eo thắt nhất chính giữa đường cong hình chữ S nước Việt Nam. Bởi vậy, không quân Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, làng Vĩnh Tuy tôi nằm giữa các tọa độ bom. Bom bi, bom phá, bom tạ, bom tấn, bom từ trường, bom nổ chậm cắm xuống chưa nổ trong các vườn nhà, chưa nổ cắm khắp hai cánh Đồng Trên, Đồng Dưới gần làng. Những cánh đồng xa làng ba đến bốn cây số như Đồng Mươn, Trọt Tụ, Đồng Đuồi, Đồng Mả Ngài, Đồng Rường Pheo, Đồng Phủ, Cơn Bưởi, Đồng Hay, Đồng Cồn... đều có bom nổ chậm. Bà con vừa sợ, vừa chán nản tuồn vào rừng sâu không muốn cày bừa, gieo cấy” [1, tr.13]. Với nhiệt huyết của tuổi trẻ, khi vừa tuổi đôi mươi ông gia nhập quân đội, làm lính hải quân, vào trước thời điểm Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc mấy tháng, trở thành người lính tham gia các trận đánh lớn ở phà Gianh, Cồn Cỏ, Hải Phòng, Hà Nội... trong khi sau lưng mình, làng quê, ruộng đồng trở thành cái túi đựng bom đạn của kẻ thù cày xới.

Sách dày gần ba trăm trang, chia thành 16 khúc. Câu chuyện trải dài theo thời gian từ thuở ấu thơ đi học ở quê, gia nhập quân đội rồi “vì yêu văn chương nên tôi không nghĩ đến các cơ quan như bưu điện, hàng hải mà năm 1974 xin chuyển ngành về Hội Văn nghệ” [2, tr.145] cho đến lúc nghỉ hưu năm 2004. Chỉ có hai khúc đầu là nói về gốc gác gia đình và “những dặm sóng” thời còn là lính chiến sinh tử, đầy hiểm nguy và ông đã từng bị thương, trong trận đánh ở phà Gianh trong sự kiện lịch sử  ở vịnh Bắc bộ, xảy ra “vào khoảng 16 giờ 18 phút, ngày 5 tháng 8 năm 1964” còn ấm nóng trong ký ức nhà văn như sau: “Hai tàu 171 và 177 cơ động ra giữa sông Gianh sẵn sàng chiến đấu! Tôi được lệnh bỏ máy trực vô tuyến điện lên boong chuyển đạn. Trước khi chuyển đạn cho khẩu đội pháo boong trước, tôi lên đài chỉ huy lắp máy bộ đàm lên đầu thuyền trưởng (máy vô tuyến đàm thoại) để nhận lệnh chiến đấu với phân đội trưởng đang trên tàu 175 đậu đảo Hòn La (phía bắc cửa Gianh khoảng một hải lý). Máy bay Mỹ lao tới. Chúng lượn một vòng trên quân cảng. Pháo tàu phân đội được lệnh nổ súng rần rần. Bốn phi cơ Mỹ lượn trắng bụng trên dòng sông Gianh và thi nhau phóng bom. Lúc ấy, tôi đang trên đài chỉ huy chưa kịp xuống boong tiếp đạn. Tàu 171 trúng bom khói đạn mù mịt trùm kín. Đồng chí lái tàu ngã xuống dưới chân tôi hy sinh. Thuyền trưởng nhảy qua cầm tay lái. Tôi bị thương ở đùi phải...” [tr.10]. Còn đây là một ô ngăn trong ký ức về trận đánh ở Hải Phòng năm 1966: “Tốp máy bay F105 đã chúc đầu ném bom. Thuyền trưởng Thành giơ cao cờ hiệu, hô: Hai tháp pháo hướng Đông - Nam bắn! Máy bay cháy rồi, hoan hô! Lại tốp F4H vọt lên tầng cao chuyển hướng Tây - Bắc, thuyền trưởng đoán đúng ý định của chúng, hô luôn: Hai tháp pháo hướng Tây - Bắc chuẩn bị đón đầu... bắn! Trận địa trùm khói đen đặc. Màng nhĩ tôi như bị xé rách. Có một sức nóng khủng khiếp ngàn độ lửa vừa xuyên qua mặt tôi chưa đến nửa giây tích tắc. Nhưng tôi vẫn đứng vững với ống nhòm trên tay và nền đất dưới chân chưa bị xới đào? Quả đạn rốc-két vút qua giữa thuyền trưởng và tôi đang đứng, và cắm nổ trước hai khẩu đội 37 hai nòng và khẩu 25ly bốn nòng ở hướng Đông Nam, nhưng các mảnh đạn không gây sát thương các pháo thủ mà tuôn về phía trước một cửa hầm. Có ba nam sinh viên về nhà máy thực tập, khi nghe máy bay cháy vội chạy ra xem, không kịp quay vô hầm đã hứng trọn mảnh của quả đạn. Các cháu nằm gác lên nhau, trên một vũng máu. Thật tội nghiệp! Không ai có thể quên được mối thù này!” [tr.27]. Rồi đến những trận đánh trên sông Hồng trong sự kiện “Điện Biên Phủ trên không”, cuộc chiến kéo dài trong mười hai ngày đêm, ông là một trong những người lính thủy, đã cùng với quân và dân Thủ đô bảo vệ vùng trời Hà Nội... trước khi chuyển ngành về Hội Văn nghệ Quảng Bình (1974), sau khi Hiệp định Paris về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam” được ký kết năm 1973.

“Giã từ vũ khí” (Hemingway), giã từ “những dặm sóng” trên sông biển, nhưng sóng gió cuộc đời có buông bỏ được đâu. Sau khi chuyển ngành về với cuộc sống dân sự, nhà văn lại phải vượt qua những con sóng lớn hơn, với bao vất vả lo toan, eo sèo, thị phi, bầm dập. Đối với người lính thủy, sóng của biển khơi/ chiến tranh đâu bằng những đợt sóng trong lòng, gợn lên dồn dập, âm vang của đời sống, trong đó có cả nỗi buồn và niềm vui, nghiệt ngã bẽ bàng và thắm đượm tình người, tình đồng hương, đồng đội mang nghĩa cử cao đẹp và ý nghĩa nhân văn.

Ba mươi năm đầu quân về làm “lính” văn nghệ (1974 - 2004), từ Hội Văn nghệ Quảng Bình, đến Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, rồi Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế, và gắn liền với số phận thăng trầm của Tạp chí Sông Hương; từ thời ban đầu là nhân viên mỗi ngày cuốc bộ đi chữa mo-rát đến biên tập vòng đầu cho Tạp chí Sông Hương... vẫn là “lính trơn” đúng nghĩa, thậm chí, chưa bao giờ có tên trong Ban biên tập. May mắn thay, cái lớn nhất mà ông đạt được, đó là danh phận một nhà văn. Bởi lẽ, đằm sâu trong cốt tính có ý nghĩa bẩm sinh níu giữ cuộc đời ông: ông vẫn âm thầm sáng tạo, hằng năm vẫn đều đặn, liên tục cho ra đời hết tập thơ này đến tập văn kia. Có được điều này ở Vĩnh Nguyên, phần lớn là nhờ trong ông luôn hiện hữu một bản lĩnh thi nhân, nhưng cũng có sự góp phần không nhỏ là nhờ phẩm chất của một người lính, từng tham chiến, vào sinh ra tử. Những công việc được phân công, ông đều cố gắng hoàn thành. Những tiếp xúc, gặp gỡ, giao lưu, nhất là đối với những người sáng tạo ở đô thị miền Nam, như Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Bửu Ý, Định Giang... ông đều hành xử một cách đúng mực với sự tôn trọng đầy nghĩa tình và nhân cách. Có lẽ những trang viết hay, lấp lánh ánh sáng văn hóa nhân văn là những hồi ức về Trịnh Công Sơn, hoặc cuộc rượu của hai người từng ở hai bên chiến tuyến, từng có cuộc đối đầu, nổ súng thật sự trong trận đụng độ ở đảo Cồn Cỏ, giữa Vĩnh Nguyên và một thủy thủ trong quân đội Sài Gòn tên là Phạm Đích - nhà thơ Định Giang: “Phạm Đích nói tiếp: May quá, cày lên boong là đạn cở nhỏ. Nếu đạn cỡ 37 trở lên thì nguy to. Phạm Đích nói đến đây thì dừng, tay cầm ly rượu nâng lên nhìn tôi. Tôi cũng nâng ly lên. Ngọc Vịnh nhìn tôi hỏi: Ông thủy thủ Bắc kỳ cho biết có dính vào vụ Phạm Đích vừa kể hay không? Tôi nói có dính, rồi kể tiếp: Khi pháo 37 hai nòng boong trước và pháo 25 ly bốn nòng mạn phải được lệnh cùng bắn thì tôi đang ở trên đài chỉ huy cùng thuyền trưởng Nguyễn Hoàng Thiết và anh lái tàu. Chiều ấy, hai tàu phân đội tôi nhận lệnh ẩn nấp ở hòn La, chạng vạng tiến ra hòn Gió rồi được lệnh tăng tốc vào tọa độ giữa cửa Tùng - Cồn Cỏ, những tọa độ mà tàu vơ- đéc thường ra quấy rối (...). Lúc ấy, hai tàu đã vào quá mũi Lay - Vĩnh Linh. Cho biết cự ly tàu địch! Cho biết cự ly tầm súng 25, lời thuyền trưởng hỏi Nguyễn Huynh rada. Rada báo: Đã vừa tầm súng, bắn theo phương vị... độ cao... Thuyền trưởng Thiết hô: Bắn! Súng pháo hai tàu cùng bắn, lửa đạn sáng rực phóng tới một hướng. Đạn đã trúng tàu địch tóe lửa! Tiếp tục bắn! Kể đến đây, tôi nói: Viên đạn cày lên boong tàu vơ-đéc là súng pháo 25ly, đó là viên đạn lạc vào. Súng pháo cả hai tàu đều bắn chệch mạn vơ-đéc hoặc tầm đạn vòng cung vượt qua con tàu. Đinh Cường chêm ngay: Hay quá và may quá! Chiến tranh là vậy đó. Sống chết nằm trong gang tấc. Trịnh Công Sơn yêu cầu: Bây giờ Đặng Ngọc Vịnh rót hai ly rượu thật đầy cho hai thủy thủ - thi sĩ cùng cạn ly cho cuộc trùng phùng của chúng ta!...” [tr.54]. Thật là thú vị. Liệu văn chương, với sức mạnh và quyền lực của ngôn từ có thể góp phần vào công cuộc hòa hợp hòa giải dân tộc được hay không! Điều cần lưu ý là, trong suốt ba mươi năm làm văn nghệ, không khi nào Vĩnh Nguyên quên đi phẩm chất một người lính thủy và làng quê văn hiến. Đính vào trong các sự kiện, các hoạt động trong mọi công việc, là ký ức lấp lánh về làng quê sông bãi, về đất và người của xứ Huế văn hiến, nơi đã cưu mang ông trọn ba mươi năm và những tháng năm làm lính, như một sự nhắc nhở để điều chỉnh hành vi trong cuộc sống và công việc. Những mảnh vụn trong ký ức ấy có tần số xuất hiện nhiều nhất, là trong hai lần đi thực tế, để ông viết được hai bút ký làm nên danh phận văn xuôi Vĩnh Nguyên: Theo thuyền đánh cá mập (khúc 7) và Vua trầm (khúc 8).

Nhưng có lẽ là ký ức đời lính xuất hiện một cách đậm đặc và nặng đầy nghĩa tình đồng đội là chuyến rong ruỗi bằng xe máy, mà theo cách gọi bây giờ là “đi phượt”, về thăm bạn bè văn nghệ và đồng đội đã từng cùng với Vĩnh Nguyên tham chiến ở các tỉnh phía Bắc khi nhà văn mới về nghỉ hưu (2004), được kể lại trong ba khúc cuối. Thật là giàu có và hạnh phúc đối với mỗi người, nhất là khi đã đến tuổi về già, mà có được nhiều bạn bè, thân hữu. Từ Huế ra đến Hải Phòng, rồi Hà Nội và Tây Bắc, mỗi tỉnh, thậm chí, có cả nhiều huyện, ông đều ghé thăm các chiến hữu năm xưa và bạn bè văn nghệ. Ở đâu cũng được đón tiếp nồng hậu và thắm thiết nghĩa tình. Chuyến đi dài tròn một tháng bằng chiếc xe năm mươi phân khối (Cuptom). Nơi nào khi đi ra không ghé được, thì ghé lúc trở về. Có nơi đã gặp lúc đi ra, nhưng chưa thỏa, bạn vẫn cố mời mọc, nài nỉ ghé lại lúc trở về. Đất đai, biển trời nơi chiến trường xưa, gặp đồng đội cũ, ký ức bỗng dồn dập tràn về. Khi thì “Thuở ấy tôi là lính hải quân ở Hải Phòng. Khi tàu vào đốc, muốn đi chơi xa rất khó...” [tr.202]; khi thì dừng xe dọc đường ngồi nghỉ, nhìn lên bến Thuận Hải, nhớ “lúc ngưng tiếng súng, tôi bị thương. Một ông lực điền cõng tôi vào ngôi nhà cạnh bến để cô y tá băng bó cho tôi” [tr.242]; lúc lại gặp “Nguyễn Huynh, cùng quê, phụ trách rada, hơn tôi ba tuổi. Đứa báo vụ - đứa rada gắn bó như một cặp bài trùng trong tàu” [tr.214]; lúc ngủ lại nhà đồng đội cũ, lại “có cảm tưởng căn phòng như chao động, chiếc giường như có lung lay. Nằm nhà Đỗ Lương Ngọc sao như nằm trên con tàu thế này? Tự nhiên tôi nhớ hồi tàu đậu bờ sông Hồng, có ông thuyền trưởng tên Thạch, người dân tộc Cao Lan...” [tr.216]. Nhà văn như người “đi tìm thời gian đã mất”. Ký ức như được ủ mầm lâu ngày, gặp bất cứ người nào, nhìn bất cứ khung cảnh nào, có bất cứ ngọn gió nào lay động, cũng dễ dàng tuôn ra tràn ngập trong tâm hồn. Những con người có thật trong cuộc sống như Nguyễn Hoàng Thiết, Nguyễn Quốc Việt, Cao Xuân Ẩn, Nguyễn Huynh, Nguyễn Văn Hào, Nguyễn Ngọc Mến, Đỗ Lương Ngọc... lừng lững bước vào trang sách, trở thành những nhân vật văn học gây nhiều ấn tượng, khó phôi pha trong lòng người đọc. Bên cạnh đó, còn có những cuộc giao lưu, tiếp xúc với bạn bè trong giới văn nghệ như Thạch Quỳ, Hoàng Vũ Thuật, Xuân Hoài... xen lẫn với những hồi ức về Hoàng Cầm, Phùng Quán, Trần Dần, Dương Tường, Nguyễn Viết Lãm... nhưng hằn nổi lên giữa trang văn, chi phối xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm là hình tượng tác giả - một cái tôi chủ động, tự tin, có lúc tưng tửng, dọc ngang đi lại trong vùng trời ký ức thênh thang còn nặng phù sa và lắm bãi bồi. Suy cho cùng, những người luôn đầy ắp ký ức, là những người giàu có nhất trong cuộc đời. Những kẻ suốt đời chỉ chạy theo lợi danh, thì năm tháng trôi qua dường như rỗng không, chẳng có gì đọng lại.

Tự truyện là thể văn gần gũi với hồi ký. Người viết dựa trên những trải nghiệm có thật để “tái cấu trúc” theo một logic nhất định, để làm nên truyện. Nhưng tự truyện của Vĩnh Nguyên là tự truyện của một nhà thơ, chủ yếu dựa vào sức liên tưởng. Là lối kể truyện tự do, linh hoạt, gần như phi logic, không theo bất cứ một trật tự nào có sẵn. Là cách diễn ngôn tự nhiên, nhớ đến đâu nói đến đó, đôi khi cóc nhảy, đang ở chuyện này liên tưởng đến chuyện khác, rồi đảo ngược hoặc xoay chiều thời gian, chỉ tuân thủ dòng chảy của tâm tưởng. Dùng tâm tưởng để xâu chuỗi các sự kiện, các mảnh nhỏ sinh động trong ký ức, bồi đắp các chi tiết, sắp xếp các tình tiết để dựng thành truyện. Thời / không gian tâm tưởng bao giờ cũng rộng dài, mặc sức cho nhà văn lướt sóng, vẫy vùng một cách tung tẩy. Ngôn từ trần thuật và miêu tả giàu chất biểu đạt. Có những trang viết mượt mà, giàu chất thơ và hình tượng, có sức ám gợi, như tâm tưởng của nhà văn lúc lên rừng vẫn nhớ về sóng biển: “Gió chiều thổi mạnh. Những cành cây khô răng rắc gãy đổ ràn rạt xuống cạnh lối đi. Tôi ngẩng nhìn qua khoảng trống khu rừng, gió uốn cây lá lượn trên tầng tầng núi thấp thành những làn sóng xa vô tận đẹp đến mê hồn! Không có gì đẹp hơn! Đẹp không còn tả nổi! Mãi nhìn những làn sóng rừng quý giá từ độ cao tôi sướng đến ngất ngây! Vẻ đẹp của sóng biển là nhìn từ trong bờ.” [tr.122]. Tất nhiên, không phải tất cả mọi điều đều đã hoàn hảo đối với thể văn tự truyện, vốn đòi hỏi phải có tài năng thật sự trong nghệ thuật dựng truyện, nếu không khéo sẽ rơi vào mô thức của những trang hồi ký. Đó cũng là nhược điểm dễ thấy đây đó, ít nhiều trong những trang sách của Vĩnh Nguyên.

Khi vượt Trên những dặm sóng lần này, Vĩnh Nguyên đã bước vào tuổi tám mươi. Đã nếm đủ những mặn, ngọt, chua, cay ở đời. Tôi biết, cuộc đời ông còn nhiều thăng trầm, hệ lụy mà bấy nhiêu trang sách làm sao nói hết. Cả một đời lặng lẽ làm việc và sáng tạo. Không kể công, không đòi hỏi. Khi biết cha mình là thương binh, còn mang cả mảnh đạn trong người, các con thương ông vô cùng, nhưng làm sao tránh khỏi có lúc phàn nàn: “Sao ngày trước ba không giải phẫu, làm thẻ thương binh. Giờ mỗi kỳ thi, ba biết không, các con được cộng thêm một điểm rưỡi!” Ông trừng mắt: “Việc các con là lo học cho giỏi. Còn đây là việc của ba. Bạn ba ngã chết dưới chân ba thì bây giờ gia đình người ta được những gì? Ba là thủy thủ...” [tr.67]. Sóng gió cuộc đời cũng không thể bào mòn được phẩm chất của một người lính thủy. Lối sống của ông tuy khắc kỷ nhưng là tấm gương cho các con noi theo. Vì vậy, các cháu sớm có ý thức tự lực và đều thành đạt. Ông có ba người con, trong đó có hai người theo nghề của mẹ, đều trở thành giảng viên đại học. Niềm vui lớn của Vĩnh Nguyên là đã có một mái ấm gia đình hạnh phúc.

T.N.D
(TCSH47SDB/12-2022)

-------------------------
[1] Vĩnh Nguyên (2022), Trên những dặm sóng, Nxb. Hội Nhà văn. Những trích dẫn chỉ ghi số trang, là từ sách này.
[2] Kỷ yếu và tác phẩm (2002), Nhà văn Thừa Thiên Huế, Nxb. Thuận Hóa.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!