Tác giả Lê Bá Thự tái hiện cuộc sống quê ông ở thế kỷ trước với cảnh bắt tôm, bắt cá, làm ruộng, chăn trâu...
Sách do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành.
Với trên 300 trang viết, chất liệu phong phú, giàu cảm xúc, nhà văn Lê Bá Thự đưa độc giả trở về những năm 1950 và đầu 1960, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi hòa bình lập lại tại một làng quê nghèo ở Thanh Hóa. Làng quê này có cái tên đẹp và thơ mộng: Nguyệt Lãng. Làng Nguyệt Lãng có dáng hình vầng trăng thượng huyền cỡ đại với con đường độc đạo, rộng chừng sáu mét, chạy xuyên suốt từ đầu làng đến cuối làng, theo hướng tây - đông. Song song con đường này là con sông đào mà người làng vẫn gọi là Nông Giang, xây dựng từ thời Pháp thuộc.
Giữa làng tọa lạc một ngôi đình hướng đông - nam, uy nghi, đồ sộ với những hàng cột gỗ lim to đùng, kê trên nền những hòn đá tảng đại cỡ. Đầu làng, cuối làng và giữa rìa phía đông - nam làng Nguyệt Lãng là ba ngôi nghè lớn với những đồ tế khí sơn son thếp vàng sặc sỡ, dân làng vẫn gọi ba công trình kiến trúc này là nghè trên, nghè dưới và nghè giữa. Nhìn từ trên cao xuống thấy rõ “vầng trăng thượng tuần Nguyệt Lãng” được bao bọc, che chở bởi những công trình thờ tự linh thiêng. Đúng là một quần thể kiến trúc làng xã hoàn hảo của cha ông ngày trước.
Là người trong cuộc, tỏ tường đến từng chân tơ kẽ tóc làng mình, bằng ngòi bút chân thực, sinh động, lắm khi dí dỏm và trào lộng, tác giả kể cho độc giả cuộc sống nghèo khổ và lam lũ song cũng rất hồn nhiên, lạc quan của dân làng Nguyệt Lãng và bản thân ông. Qua những câu chuyện người thực, việc thực, người đọc dễ dàng mường tượng cuộc sống của một làng xứ Thanh thời chống Pháp: tăng gia sản xuất tự nuôi mình và cung cấp lương thực cho bộ đội ăn no đánh giặc, đóng thuế nông nghiệp, đi dân công tải đạn và tải gạo phục vụ các chiến dịch lớn như Điện Biên Phủ, Hòa Bình… Gian khổ và vất vả là vậy nhưng người dân làng Nguyệt Lãng vẫn lạc quan yêu đời, ca hát, nhảy múa.
Đọc Tôi và làng tôi dễ nhận ra nhà văn Lê Bá Thự từng là một đứa trẻ chăn bò tinh ranh, lắm chiêu trò, từng là một lực điền, nông dân thực thụ, một xã viên hợp tác xã gánh phân cực khỏe, thành thạo mọi công việc nhà nông như nhổ mạ, bừa ruộng, làm cỏ lúa, gặt, đập… Anh còn có tài kiếm cá, mò cua, bắt ốc, bắt ếch… đến độ được “tôn vinh” là “Con rái cá làng Nguyệt Lãng”. Người đọc thích thú, thậm chí thán phục, khi đọc những trang anh kể rất tỉ mỉ, chi tiết và “chuyên nghiệp” về chuyện anh bắt cá thành thạo như thế nào. Đó là úp nơm, cắm câu bắt cá quả, câu cá ngạo, kéo khẳng bắt cá diếc, câu và bắt cá rô, bắt ốc, đơm trúm, kéo te bắt tôm tép… Trong bài Ai bảo chăn trâu là khổ, tôi chăn bò có sướng hơn không?, tác giả cho độc giả cơ hội sống lại thời thơ ấu chăn trâu, cắt cỏ, nghịch ngợm, đầy hồn nhiên, nhiều thi vị. Đọc các bài Xem phim Bạch Mao Nữ, Tôi nuôi lợn ỉ, Tắm mưa, trận mưa đầu mùa, trận mưa ếch, Những trò chơi của trẻ con làng tôi, Tết trong nhà, tết ngoài làng, Chợ tết cầu may, Trường làng, Trường huyện, Trường tỉnh… độc giả dễ dàng nhận ra hình ảnh chính mình trong đó, nhất là những người từng sống ở làng quê.
Trong bài giới thiệu cuốn sách Tôi và làng tôi, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng Lê Bá Thự kể chuyện mình mà ra chuyện người. Chuyện của làng mình mà cũng là chuyện của nhiều làng quê khác. Đó là vẻ đẹp đã “lùi vào cổ tích” nhưng là hồn vía của quê. Mà cái hồn vía ấy lại đang phiêu bạt. Trần Đăng Khoa gọi nhà văn Lê Bá Thự là người "gọi hồn" làng. “Và rồi nhờ tiếng 'gọi' da diết của anh, những vẻ đẹp của làng quê, những hồn vía của làng quê xưa đã thấp thoáng trở về rồi lồng lộng hiện lên nguyên vẹn, sắc nét trong cuốn sách này. Không chỉ có làng Nguyệt Lãng của anh, mà cả làng Điền Trì của tôi và còn rất nhiều làng quê khác trong suốt dải đồng bằng Bắc Bộ cũng đã thấp thoáng về đây, sum vầy quần tụ trong những trang sách này”, Trần Đăng Khoa viết.
Tác giả Hạt gạo làng ta nhận định đây là một cuốn sách quý. "Nó như một bảo tàng nho nhỏ, một bảo tàng riêng của Lê Bá Thự, lưu giữ những vẻ đẹp của người quê, cảnh quê những năm 50, 60. Đó là bầu khí quyển trong vắt. Bầu khí quyển nông dân mà ta ngỡ chỉ có thể tìm thấy ở nước thiên đàng…”, nhà thơ chia sẻ.
1. Đời người trăm năm như nhau, nhà văn Tây hay ta gì gì ông Trời cũng chẳng ưu ái thêm ngày nào, vậy mà bên trời ấy thế hệ này đến thế hệ khác nảy nòi bao nhiêu tiểu thuyết gia lớn. Còn ta thì không. Tại sao?
Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.
Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.
Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.
Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.
Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.
Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.
Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạc, Dưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.
NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.
“Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.
Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.
Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.
Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.
“ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.
Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.
Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.
Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.