Ở sách mới, Phan Triều Hải nhớ về thành phố gắn chặt với ký ức tuổi thơ, còn Du Tử Lê hoài niệm những thanh âm của phòng trà xưa.
Sài Gòn những biểu tượng tập hợp 19 câu chuyện qua trang viết của các cây bút như: Tiến sĩ Huỳnh Như Phương, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Hiệp, nhà báo Phạm Công Luận, nhà văn Khải Đơn, nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên, nhà thơ Trần Lê Sơn Ý... Mỗi tác giả mang đến một góc nhìn khác nhau về Sài Gòn với những nét cũ và mới đan xen hài hòa. Sách không chỉ nêu nhiều hình ảnh đặc trưng của Sài Gòn qua năm tháng mà gợi mở những cuộc khám phá và ghi nhận về hệ giá trị Sài Gòn hôm nay và mai sau.
Sách còn đưa độc giả trở về thanh xuân của họ ở ngóc ngách nào đó của Sài Gòn, đó có thể là phòng trà quen tên - nơi vấn vít tiếng hát Thái Thanh, Khánh Ly một thời, con hẻm cà phê cóc mỗi ngày, hay đơn giản là những hàng cây góc phố đã đi qua bao lần. Mỗi bài viết mang một cái tên gợi lên miền ký ức thấm đẫm thân thương: Hẻm Sài Gòn: Ai nhớ, ai quên; Sài Gòn ơi, có mệt lắm không; Sài Gòn của tui đâu rồi; Dưới bóng những biểu tượng đổi dời… Đằng sau mỗi câu chuyện của tác giả, người đọc có những chiêm nghiệm riêng. Và ẩn sau câu chữ là trăn trở, là ngậm ngùi về bản chất quy luật phát triển: cuộc sống vội vã đã khiến có lúc người ta đánh mất một phần vẻ đẹp từng là niềm tự hào của thành phố.
"Chợ Bến Thành, nhà hát Thành phố, nhà thờ Đức Bà, tòa nhà Bưu điện... hệ thống biểu tượng quen thuộc để nhận diện thành phố trong quá khứ sẽ trở thành những mẩu nhỏ công trình cô lập, đơn lẻ, hoang vu sau những mất mát trên phương diện quần thể, những tổn thương trong hệ sinh thái kiến trúc", sách viết.
Một người được gọi là "Người Sài Gòn" không phải chỉ là người gốc Sài Gòn, mà bởi danh từ này trở thành thước đo độ am hiểu và tình yêu của một người dành cho thành phố này. "Ai cũng có một chỗ của mình ở Sài Gòn. Thành phố này là một con tàu, mỗi nơi chốn vô danh trong thành phố là một chiếc phao trên mạn tàu để những người đang chấp chới trên biển có thể bám vào. Mỗi người ghi nhớ chiếc phao đã giữ mình lại, khắc ghi vào tâm trí bước chân đầu tiên trên miền đất mới, nơi mà ngay từ phút giây lựa chọn ở lại, không còn phân biệt người cũ mới mà chỉ còn là một" (trích bài "Ai cũng có chỗ cho mình ở Sài Gòn", tác giả Phan Triều Hải).
19 tác giả, có người sống ở Sài Gòn, người ở thành phố khác, người định cư nước ngoài, nhưng quy cho cùng, tình yêu dành cho thành phố vẫn vẹn nguyên, tròn đầy. Sách có phần biên khảo cho những ai muốn tìm hiểu sâu hơn về kiến trúc, thương mại hay những nhân vật kiệt xuất của TP HCM ngày ấy. Hiểu và yêu thành phố, trong chiều kích đó, là sự gửi gắm giấc mơ chung về một đô thị phát triển bền vững, sung túc kinh tế và nhân văn.
Theo Thanh Phương - vnexpress
. Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).
Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.
“Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…
"Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.
"Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".
Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…
Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.
Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?
NGUYỄN NHẬT ÁNH
Tạp văn
Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký" khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi.
Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…
Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như bờ sông Hương ở Huế vậy…”.