Tiểu thuyết "Công chúa nhỏ" của Frances Hodson Burnett kể câu chuyện về cô tiểu thư thất thế, nhưng vẫn mang trong mình cốt cách lớn.
Sách "Công chúa nhỏ" do Nguyên Tâm dịch, mới được phát hành ở Việt Nam.
Cô tiểu thư 7 tuổi Sara Crewe phải rời xa mảnh đất Ấn Độ đầy nắng để tới London xa xôi. Đại úy Crewe - cha của Sara - đã tìm cho con gái một ngôi trường tốt: trường tư thục của cô Minchin. Để Sara luôn có cuộc sống thoải mái của một nàng công chúa, Đại úy Crewe mua cho con gái một tủ áo hoành tráng đầy áo lông đắt tiền, mũ gắn lông đà điểu và cả bít tất lụa. Chúng khiến nhiều phụ nữ trong cửa hàng thời trang không khỏi ngạc nhiên. Họ nghĩ cô bé có đôi mắt luôn mở to màu xám khói và mái tóc đen hẳn phải là con gái của một vương công Ấn Độ.
Ở đây Sara sống cuộc sống của một nàng công chúa. Cô bé có hầu gái riêng, có một căn phòng rộng rãi, với phòng khách và bàn để uống trà chiều cùng các bạn. Sara đã tỏ rõ sự thông minh của mình khi có thể nói chuyện thật trôi chảy và mượt mà bằng ngoại ngữ. Là một đứa bé ngoan ngoãn, hòa đồng và dễ mến, Sara như thể một thiên thần ở trường học. Sara giúp Ermegarde trong học tập và luôn khích lệ cô bạn nhút nhát của mình. Nhờ có Sara mà Ermegarde xóa đi mặc cảm tự ti rằng mình chỉ là một đứa ngốc nghếch và béo ú. Cô bé luôn quan tâm, dỗ dành Lottie - một cô bé 4 tuổi tội nghiệp không còn mẹ. Ngay với cả Becky - phụ việc ở dưới bếp, người luôn ám đầy mùi khói và dầu mỡ, Sara cũng đối xử chân thành. Chính những điều này khiến một người phụ nữ nhỏ nhen, ích kỷ như cô Minchin không hài lòng. Nhưng vì gia tài kếch xù của Sara, người đàn bà tham lam ấy vẫn chiều chuộng cô bé hết lòng.
Vào ngày sinh nhật lần thứ 11, mọi tai họa ập đến với Sara. Cô được tin Đại úy Crewe chết vì bệnh sốt rét rừng ở Ấn Độ. Gia tài kếch xù của Sara bị mất sạch vì công việc làm ăn thất bại của bố. Giờ đây, cô chỉ là một đứa bé không người thân, không một xu dính túi. Số tiền bỏ ra để tổ chức sinh nhật cũng sẽ không có ai thanh toán. Cô Minchin vô cùng tức giận và lập tức lộ bộ mặt thật của mình. Sara tội nghiệp từ đó phải cởi bỏ những bộ quần áo đắt tiền, mặc một bộ váy đen cũ kỹ và xuống làm việc dưới bếp.
Căn phòng rộng rãi với nội thất đắt đỏ không còn nữa. Thay vào đó là căn buồng áp mái bẩn thỉu và lạnh lẽo. Nhưng bằng một nhân cách cao thượng Sara đã dũng cảm đối mặt với nghịch cảnh. Cô bé không hề van lơn hay cầu xin sự giúp đỡ. Cô bé vẫn cư xử thật nhã nhặn với tất cả mọi người: luôn lịch sự, không hề nổi xung ngay cả với những kẻ nhạo báng mình.
Sara tin rằng mình là "công chúa" nếu cư xử như một công chúa. Tuy mất đi tiền bạc nhưng Sara vẫn còn những người bạn tốt bụng như Becky, Lottie và Ermegarde. Bằng một trái tim lạc quan và yêu đời, Sara luôn tìm thấy hạnh phúc ở căn buồng áp mái cũ kỹ.
Tình cảm, sâu sắc, lay động và đầy nhân văn, Công chúa nhỏ là một kiệt tác của Frances Hodgson Burnett. Ban đầu, tác phẩm là một vở kịch được trình diễn trên sân khấu Broadway vào năm 1902. Chính sự đón nhận nhiệt tình của công chúng đã thôi thúc Burnett viết thành tiểu thuyết và ra mắt tại Mỹ vào năm 1905. Nổi tiếng thế giới với cái tên Sara Crewe, tiểu thuyết này đã 7 lần được chuyển thể thành phim với các phiên bản của Mỹ, Nga, Anh và Nhật Bản.
Frances Hodgson Burnett viết văn từ khi 19 tuổi, nhưng mãi đến năm 30 tuổi bà mới gây được chú ý với các tác phẩm dành cho thiếu nhi. Ngoài Công chúa nhỏ bà còn được độc giả Việt Nam biết đến với tiểu thuyết Khu vườn bí mật.
Nguồn: Quỳnh Anh - vnexpress
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.
(Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.
Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.