Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.
Bông hoa thánh khiết chốn hậu cung
Viết về thời nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhưng nhân vật chính và xuyên suốt tác phẩm chính là bà Từ Dụ. Là con dâu của vua Minh Mạng, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức, Từ Dụ đã dùng nhân cách, trí tuệ của mình để có được địa vị trong hoàng cung cũng như trong lòng bậc đế vương và dân chúng. "Từ Dụ" có nghĩa là vẻ đẹp, là nhân ái, tốt lành. Cuốn tiểu thuyết đã lí giải sâu sắc ý nghĩa ấy từ chính thân phận, cuộc đời nhân vật chính.
Cô thiếu nữ 13 tuổi Phạm Thị Hằng theo cha là Phạm Đăng Hưng từ vùng đất phương Nam trù phú về kinh đô, chịu bao thăng trầm dâu bể rồi trở thành người đứng đầu hậu cung nhà Nguyễn, là Từ Dụ thái hậu sau này. Cô tiểu thư họ Phạm xinh đẹp, thông minh và nhân hậu đã chứng kiến rất nhiều phận đời sau bức tường thành cung cấm, những bi kịch chốn cung đình, và rồi bản thân nàng cũng trở thành một thân phận điển hình. Những mưu mô thủ đoạn tàn độc đầy rẫy ở hậu cung đôi lúc làm khuynh đảo cả triều chính, gây ra những cái chết tức tưởi, những án oan dậy trời tiếng nhơ khó rửa, đến mức hậu thế phải tốn nhiều bút mực tranh luận.
Mối tình của Phạm Thị Hằng và hoàng tử Miên Tông (vua Thiệu Trị sau này) là một bức tranh trong trẻo, lãng mạn, bừng sáng giữa chốn cung đình đầy mưu ma chước quỷ ấy. Bên cạnh đó còn có bóng dáng thầm lặng mà trung thành trước sau như một của Trương Đăng Quế, đệ nhất công thần nhà Nguyễn, người mang mối ẩn tình với Hằng bao năm (mối tình này đã trở thành một “đại nghi án” gây tranh cãi của triều Nguyễn). Cuộc chiến cam go bảo vệ tình yêu, danh phận, bênh vực giúp đỡ người ngay và lẽ phải ở nơi cao sang quyền quý thực sự gay cấn và đầy hiểm nguy, nhất là khi thiện ác tranh tối tranh sáng khôn lường.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải nhận định: “Chỉ thông qua các chuyện trong hậu cung, chính trường nhà Nguyễn qua ba triều vua hiện lên một cách sinh động dưới ngòi bút sắc sảo của nữ nhà văn Trần Thùy Mai. Mặt khác, văn hóa phong tục được gói trong các lễ nghi giao tiếp, trong các sinh hoạt cung đình và dân dã được mô tả rất tinh tế, rất Huế. Từ Dụ thái hậu là một cuốn tiểu thuyết lịch sử hấp dẫn và trung thực lạ lùng”.
Âm mưu, quyền lực, tranh đấu, thủ đoạn,... tất cả đều hiện diện ở chốn cung đình. Nhưng trong Từ Dụ thái hậu, nhà văn Trần Thùy Mai cũng khẳng định sức mạnh lớn lao của tình yêu, tình bạn, tri kỉ và sự lương thiện. Từ Dụ đã vượt qua mọi cám dỗ quyền lực để trở thành bông hoa thánh khiết thực sự và hiếm hoi của chốn hậu cung.
Sự thực lịch sử và hư cấu lịch sử
Nhà văn Trần Thùy Mai đã viết tác phẩm này dựa vào ba yếu tố tư liệu: chính sử, dã sử và dân gian. Bản thân nhà văn từng nói về những khó khăn khi tư liệu lịch sử ghi lại quá ít ỏi và đứt quãng. Tuy nhiên, đây cũng chính là cơ hội để nhà văn bung trổ trí tưởng tượng và tài hư cấu của mình. Vì vậy mà Từ Dụ thái hậu đã trở thành áng văn chương đầy sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử.
Thật vậy, một nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử mà chỉ dựa vào lịch sử thì đó là một nhà văn thất bại. Những cảm hứng lịch sử hay ám ảnh lịch sử sẽ thôi thúc nhà văn cầm bút viết về điều đó bằng tài năng của mình. Trần Thùy Mai đã cho thấy niềm đam mê với lịch sử, đặc biệt là lịch sử triều Nguyễn, kinh đô xứ Huế, nơi quê hương chị; và những ám gợi lịch sử ấy sâu sắc đến độ Trần Thùy Mai đã viết để soi vào/hướng vào nội tâm của những nhân vật lịch sử, chị muốn thấu hiểu những nhân vật của lịch sử.
Chọn con đường chênh vênh, một bên là núi cao của sự thực lịch sử, một bên là vực thẳm của hư cấu, nhưng Trần Thùy Mai đã khéo léo, tinh tế đi bằng trí tưởng tượng của mình. Lịch sử có nhiều mất mát và còn nhiều tồn tại, nhà văn bằng sự nhiệt tâm với quá khứ và vượt qua những ngáng trở của hiện tại để khẳng định vai trò của văn chương với lịch sử. Hư cấu dựa trên lịch sử luôn là cách để nhiều nhà văn lựa chọn viết tiểu thuyết lịch sử. Nhưng sự thành công của hư cấu thì phụ thuộc vào cảm quan của nhà văn khi “phán đoán” về lịch sử. Trần Thùy Mai đã trung thành với những điều lớn lao như nhân vật, sự kiện, tính cách. Nhưng chính sự tương tác giữa những tính cách nhân vật qua các sự kiện đã tạo nên những tình tiết hư cấu hấp dẫn cho tiểu thuyết lịch sử này. Là tiểu thuyết lịch sử hư cấu nhưng Trần Thùy Mai đã khắc họa được cái hồn của triều đại nhà Nguyễn. Đó là sự thành công của chị. Ở một khía cạnh khác, có thể nói, lịch sử là phương tiện để chị sáng tạo và gửi gắm những thông điệp của riêng mình. Lịch sử đã được viết lại bằng tư tưởng của nhà văn.
Không thể không nhắc đến ngôn ngữ của cuốn tiểu thuyết này. Nhà văn Trần Thùy Mai đã ý thức viết tiểu thuyết lịch sử của người Việt bằng những ngôn ngữ, văn phong thuần Việt. Với mong muốn, tiểu thuyết lịch sử sẽ làm cho giới trẻ yêu thích lịch sử hơn, Trần Thùy Mai đồng thời mang đến một bài học về ngôn ngữ tiếng Việt qua tác phẩm này. Hơn 900 trang sách đều là những trang cô đọng, nén, gợi. Ở đó không có sự dàn trải của sự kể, tả thông thường. Nhà văn tiết giảm tối đa những chi tiết, từ ngữ không cần thiết để mọi thứ được đề cập đến đều có một vai trò, chỗ đứng thực sự trong tác phẩm.
“Ở chỗ nào nhà sử học run tay, thì ở chỗ đó nhà văn sẽ viết”. Ý của nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Vương khi nói về Từ Dụ thái hậu là nhằm đề cao tiếng nói quyền lực của văn chương, trong việc nhìn về/lại lịch sử.
Theo Hoài Phương - VNQĐ
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.