"Tấn trò đời" với việc "Làm sao biến được một nhân vật đức hạnh trở thành hấp dẫn..."

15:24 18/12/2009
ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".

Bìa cuốn "Tấn trò đời" (bản tiếng Pháp) - Ảnh: livre.fnac.com

Trong khi căn cứ vào một số lời tuyên bố (tất nhiên là có ý thức và có lặp lại) của Xtăngdan, một số nghiên cứu như Misa, Lagacđơ cho rằng hình tượng nhân vật của Xtăngđan chỉ thể hiện "cuộc săn đuổi hạnh phúc"..., "cá nhân đến mức tự kỷ trung tâm"... rất "mãnh liệt, độc đáo và say đắm". Còn giới nghiên cứu Xô viết lại đánh giá rất cao Đỏ và Đen, Tu viện thành Pacmơ theo những giá trị khác, và đoạn Juyliêng Xôren ra trước tòa, giây phút "cái đầu tuyệt đẹp ấy sắp rơi xuống" đã được trích trong sách giáo khoa, coi như có ý nghĩa giáo dục rất lớn.

Tuy nhiên, nếu chỉ để giản đơn giải đáp rằng Banzăc có ý đồ xây dựng nhân vật chính diện hay không, thì chúng ta cũng có thể dùng câu trả lời của chính Banzăc: "Có lẽ cho tôi được phép xin người ta lưu ý tới việc có biết bao nhiêu là gương mặt hoàn thiện (về đạo đức) trong các bộ phận đã xuất bản của công trình này: Pieret Loranh, Uyêcxuyn Miruôt, Côngxtăngxơ Birôtô, Ơgiêni Grăngđê, Macgơrit Claex, Pôlin đơ Vilơnoa, bà Giuyn, Evơ Sacđông, tiểu thư Đê Grinhông, bà Phiêcmiami, Agatơ Rugiê, Rơnê đơ Môcôngbơ. Sau cùng, nhiều gương mặt ở hậu trường, có lẽ không nổi bật bằng, song cũng chẳng phải là không cung cấp được cho độc giả những thực tế đạo đức gia đình, như Giôdef Lơba, Giênexta, Bênaxi, linh mục Bonê, thầy thuốc Minôrê, Flơrôn, Đavít Xêsa, vợ chồng Birôtô, nhà Xôvia, nhà Tasơrông và biết bao nhiêu người khác, chẳng phải rằng họ đã giải quyết cái vấn đề hắc búa của văn học là làm sao biến được một nhân vật đức hạnh trở thành hấp dẫn đó ư?" (Lời tựa Tấn trò đời) (1).

Tất nhiên, trích dẫn như vậy, chúng tôi nghĩ rằng chúng ta không đơn giản chỉ đánh giá hình tượng qua những ý đồ của tác giả. Ngay đoạn phát biểu trên của Banzăc chứng tỏ nhà văn đã lựa chọn nhầm một phần nào những "gương mặt hoàn thiện" của mình. Còn nói về số lượng về nhân vật chính diện, thì có lúc Banzăc thậm chí đã thống kê nó, chỉ kể riêng số lượng phụ nữ, thì nó "lớn hơn một phần ba so với tổng số những con người có thiếu sót, một điều mà trong thế giới thực người ta chẳng thể nào thu hoạch được" (2). Chúng tôi trích dẫn như vậy, để thấy rằng, về những ý đồ của tác giả, chúng ta cũng vẫn phải xét nó trong nhiều mối liên hệ, đặc biệt là qua sự thể hiện của nó trong hình tượng. Mà hình tượng, như chúng ta biết, không phải luôn luôn tuân theo một số ý đồ nào đó của tác giả. Trước hết nếu xét ý đồ của Banzăc, chúng ta thấy nhà văn hay nhắc đi nhắc lại khái niệm nhân vật "đạo đức". Trong thực tế, có những kết quả ngược lại. Thứ nhất, chỉ lấy ví dụ trong số nhân vật đạo đức mà ông đã kể, chúng ta thấy chưa bao giờ họ là những "gương mặt hoàn thiện", ngay cả về đạo đức! Côngxtăngxơ Birôtô "đạo đức" nhất trong các nhà tư sản, thể hiện "sự trong sạch của giới thương mại", song vẫn chỉ ra những mánh khóe để chồng có thể kiếm lời nhiều hơn, có nghĩa là vẫn phải... lừa đảo! Còn hãy lấy một nhân vật đã trở thành gần như là "nữ thánh" của "nhà Xôvia", Vêrônic Xôvia tức phu nhân Graxlanh. Thời trẻ, bà đã mang một mối tình tội lỗi: dù được chồng là nhà tư sản Graxlanh hết sức chiều chuộng, trong những lúc đi làm việc thiện, vào một xóm thợ nghèo, nàng đã dan díu cùng với một người thợ trẻ là Tasơrông. Vì muốn cùng người yêu trốn sang Mỹ, Tasơrông đã buộc phải ăn cắp và vì bị lộ trong lúc hành sự, anh đã giết hai người vô tội một lúc! Tasơrông, vì giữ gìn danh dự cho người mình yêu, đã không khai nửa lời và chịu án tử hình. Bà Graxlanh, ăn năn hối lỗi, đã khai hóa cho cả một vùng và chỉ thổ lộ bí mật của đời mình trước khi tắt thở cho Bonê, "người cha xứ nông thôn..."

Ngoài ra, những nhân vật thành công nhất của Banzăc không thể chỉ chứa đựng trong khái niệm "nhân vật đạo đức". Chỉ kể Ơgiêni Grăngđê, nàng đã có một ý nghĩa xã hội rộng lớn hơn thế. Đó là một loại mâu thuẫn của Banzăc trong ý đồ xây dựng nhân vật chính diện. Một mâu thuẫn khác là: mặc dù ông có ý thức về điều này trong suốt quá trình sáng tác Tấn trò đời, ông luôn luôn cảm thấy ý đồ bị phá vỡ bởi thực tế xã hội bên ngoài. Ông viết trong một bài tựa cho Miếng da lừa: "Thiên hạ đòi hỏi những bức tranh đẹp đẽ, vậy lấy đâu ra những điển hình? Những trang phục giả dối của các anh, những cuộc cách mạng chẳng thành, những gã tư sản nói dông dài của các anh, nền tôn giáo đã chết, những quyền lực lụn bại, những ông vua ăn lương hưu của các anh, chẳng lẽ những cái đó nên thơ lắm hay sao mà phải biến hóa nó đi nữa?... Bây giờ, chúng tôi chỉ có thể châm biếm mà thôi".

Đây là một điểm khiến Banzăc luôn luôn phải đương đầu với các kẻ thù đương thời của ông. Trong lúc ông tưởng rằng mình đang xây dựng những nhân vật đạo đức thì họ kết tội ông là vô đạo đức. Ở đây, xuất hiện cái lõi cốt của nhà văn: ông không chịu lý tưởng hóa nhân vật chính diện. Theo ông, "Không phải lỗi ở tác giả nếu sự việc tự báo và báo rõ đến thế". Trước hết là đối với số phận của những nhân vật chính diện. Trả lời những người đã van xin ông nới tay ban cho "nhân vật đạo đức một số phận tốt đẹp hơn (họ vẫn khoái cái kiểu kết thúc truyền thống, những "happy-end" (3) cho nhân vật chính diện), ông trả lời: "Đừng có làm tôi phải rối trí vì những thói đa cảm của các anh, những kẻ ấy yếu đuối, vụng về; cái phải xảy ra ắt sẽ xảy ra, mặc xác họ".

Về tính cách nhân vật, ông cũng ý thức được rằng không phải những khái niệm về đạo đức, về cái đẹp là bất biến ở từng thời gian, không gian, xã hội và ngay ở một con người. Một chàng thanh niên như Saclơ, phải biến đổi theo hướng phản diện, một khi đã "đến bờ biển châu Phi buôn người da đen"vì "cách tốt nhất để làm giàu ở vùng nhiệt đới cũng như ở châu Âu là buôn người". Banzăc viết trong Ơgiêni Grăngđê về những ý niệm chính nghĩa và phi nghĩa, về đạo đức: "Hắn không có ý niệm nhất định về chính nghĩa và phi nghĩa, khi thấy ở cái xứ này coi là đạo đức thì xứ kia lại cho là tội ác". Và ngay cả một khái niệm mà chúng ta thấy nhắc đi nhắc lại ở tác phẩm, nhân vật của Banzăc là nhân vật mang "passion" (dục vọng) thì cách hiểu qua tiếng Việt của chúng ta cũng có phần chưa ổn. "Passion" ở nhân vật của Banzăc không phải luôn luôn là cái gì xấu. Ở đây, có lẽ chúng ta nên hiểu và chuyển nó theo cái ý là "say đắm". "đam mê". Bởi vì, theo Banzăc: "Passion là tất cả loài người. Không có nó, tôn giáo, lịch sử, tiểu thuyết, nghệ thuật sẽ thành vô ích. Khi thấy tôi thu thập quá nhiều hiện tượng và vẽ chúng đúng như thật, với sự say đắm làm chất liệu, một vài người đã tưởng tượng rất sai lầm rằng tôi thuộc về trường phái duy cảm và duy vật, hai mặt của một vấn đề, chủ nghĩa phiếm thần. Song có thể là người ta đã lầm. Tôi không chia sẻ niềm tin về một sự tiến bộ vô tận, về mặt xã hội; tôi tin ở những sự tiến bộ của con người đối với chính mình. Những kẻ muốn nhìn thấy ở tôi cái ý định coi con người như đã hoàn thành rõ ràng đã lầm lần vô cùng" (4).

Ở Banzăc, sự thể hiện vẻ đẹp con người trong những giới hạn của bản thân nó, hay nói đúng hơn là trong những giới hạn của cuộc sống đã được ông ý thức một cách sáng suốt. Bởi vậy, những "say đắm" cao cả nhất trong con người của Banzăc, như say đắm sáng tạo một cách vô tư, không vì "quan hệ trả tiền ngay" (như ở Bantada Claex) vẫn có thể thiêu đốt cuộc đời và hạnh phúc riêng tư của nhà bác học này. Những "say đắm" lành mạnh hay dục vọng đều làm co rút "miếng da lừa", biểu tượng cho cuộc đời Raphaen de Valăngtanh. Đó là một thực tế của cuộc sống.

Vẻ đẹp của con người còn thường được Banzăc giới hạn bởi lứa tuổi: hầu hết những nhân vật chính diện của Banzăc thường đẹp nhất là lúc họ còn trẻ. Ông có ý thức về điều này và viết trong tựa phần Khảo sát phong tục thế kỷ XIX (do Fêlix Davanh thảo và Banzăc chắc chắn đã sửa chữa lại năm 1835): "Vào tuổi hai mươi, mọi tình cảm được bộc lộ một cách hào hiệp; đến ba mươi tuổi thời tất cả đã được tính toán, con người trở thành ích kỷ" (5). Thoạt nhìn, cách lý giải của Banzăc có vẻ "sinh vật học". Vận dụng những thành tựu của sinh vật học vào lĩnh vực xã hội học là một ý đồ cách tân của Banzăc và là một thành tựu, nó chưa có ý nghĩa thoái hóa như ở thời Zôla. Song theo chúng tôi nghĩ, sẽ lầm lẫn nếu cho rằng Banzăc chỉ gắn vẻ đẹp của con người với những giai đoạn phát triển sinh lý của họ. Ở đây, sự biến đổi của con người theo tuổi tác gắn chặt với sự thâm nhập vào cuộc sống xung quanh, vào sự "trưởng thành" trong xã hội tư sản: đó là một cái nhìn có giá trị về mặt xã hội học.

Điều mà nhà văn phải chiều theo, tuân thủ theo ở đây vẫn là cuộc sống. Cho nên, hầu hết các nhà văn hiện thực đều cảm thấy bị cản trở trong ý đồ xây dựng nhân vật chính diện. Mâu thuẫn này, như vậy, phần nào do chính thực tế làm nảy sinh. Khi xây dựng nhân vật Đavit Xêsa và Evơ để đối lập lại với Luyxiêng Sacđông trong Vỡ mộng, Banzăc đã phải làm việc vất vả hơn phần viết về Luyxiêng trong Một vĩ nhân tỉnh nhỏ ở Pari gấp bội lần. "Đó là một điều khó khăn khủng khiếp". Banzăc đã phải đọc lại, có nghĩa là phải sửa chữa tới mười bảy, mười tám lần, thậm chí mười chín lần bản thảo phần Những đau khổ của nhà phát minh. "Tưởng như tôi phải tái - sáng tác nó mười sáu lần trong cái tháng này", ông viết cho bà Hanxka như vậy, ngày 7 tháng Bảy năm 1843. Cảm giác khó khăn trong khi thực hiện ý đồ xây dựng nhân vật chính diện cũng được Đôxtôiepxki nhấn mạnh khi sáng tác Thằng ngốc: "Tư tưởng quan trọng nhất của cuốn tiểu thuyết - đó là miêu tả con người hoàn toàn đẹp (...). Mọi nhà văn, (...) bất kì ai bắt tay vào việc này đều luôn thất bại".

Như vậy là mặc dầu tất cả những mâu thuẫn của tác giả giữa ý đồ của mình về nhân vật chính diện với chính những kết quả của nó qua thành tựu nghệ thuật, với thực tế xã hội, chúng ta vẫn có thể kết luận rằng Banzăc đã ý thức được nhiệm vụ này. Và ý đồ này không phải chỉ thể hiện ở một vài tác phẩm, trong một giai đoạn nhất định mà nó xuất hiện từ những tác phẩm đầu tiên, của Tấn trò đời, cho đến những tác phẩm cuối. Viết Ơgiêni Grăngdê, Banzăc đã nói đến sự đối lập ngay chính giữa phòng khách của lão Grăngđê, ở đấy có hai mẹ con Ơgiêni, "những ngoại lệ kỳ khôi trong đám người sống hoàn toàn về vật chất ấy". Viết Xêda Bỉrôtô, Banzăc muốn thể hiện "sự trong sạch của giới thương mại". Lão Gôriô là dự định thể hiện tình cha con cao cả... Ông dự định đối lập Đavit Xêsa với Luyxiêng Sacđông trong Vỡ mộng dù cuối cùng phải nhận ra rằng: "Thật là tuyệt vọng cho tôi. Vẻ đẹp trong sáng của Evơ Sacdông và Đavit Xêsa không bao giờ có thể địch lại được với bức tranh về Pari của Một vỉ nhân tỉnh nhỏ ở Pari (Lời tựa chung cho Tấn trò đời). Trong lời tựa cho Pieret, Banzăc cũng viết: "Nếu trong khi đọc cái lịch sử sống của những phong tục hiện đại này mà bạn, người chủ hiệu, không muốn chết như Xêda Birôtô hay sống như Pilơrô hơn làm gã Đuy Tiê hoặc Rôganh; mà bạn, người thiếu nữ, không muốn làm Pieret hơn là phu nhân Đơ Rextô; mà bạn, là người đàn bà, không muốn chết như phu nhân Đơ Moocxôf hơn là sống như phu nhân Đơ Nuyxanhgiăng, mà bạn, là người đàn ông, không muốn văn minh như Bênaxi đã làm mà muốn sống tựa cỏ cây như Rôgrông, không muốn là cha xứ Bonê hơn là làm Luyxiêng đơ Ruybămprê, không muốn gieo rắc hạnh phúc như người lính già Giênetax hơn là sống như Vôtơranh thì chắc chắn là tác giả đã không đạt được mục đích. Những sự vận dụng cá thể của các điển hình này, ý nghĩa của muôn nghìn câu chuyện hợp thành cái lịch sử phong tục này sẽ không được thông cảm" (5).

Tóm lại, mỗi một lời tuyên bố của nhà văn đều biểu hiện những mâu thuẫn trong ý đồ xây dựng nhân vật chính diện. Thứ nhất là mâu thuẫn giữa chính những ý định khác nhau - tiến bộ có, bảo thủ có - của bản thân nhà văn. Thứ hai là mâu thuẫn giữa khái niệm có phần chật hẹp của nhà văn với ý nghĩa chân chính của hình tượng chính diện. Thứ ba là mâu thuẫn giữa ý đồ xây dựng nhân vật chính diện với một thực tế luôn luôn có những yếu tố phá vỡ dự định này.Bởi thế, trong ý đồ, Banzăc dự định xây dựng một kiểu nhân vật chính diện khác trước. Đó không phải là kiểu người "thanh giáo" mà Oantơ Xcôt đã mô tả, ông cho rằng "Oantơ Xcôt đã phải giả dối, vì buộc phải phù hợp với những tư tưởng của một xứ sở căn bản là đạo đức giả". Ngay cả một hình tượng người đàn bà được coi là tuyệt vời của văn học quá khứ, theo Banzăc, "trái lại, Clarixơ, cái hình ảnh đẹp đẽ này của đạo đức nhiệt thành, có những đường nét của một sự thanh khiết đáng tuyệt vọng". Banzăc cho rằng cần phải thể hiện những anh hùng mới, một Napôlêông khác của lịch sử: những anh hùng, những Napôlêông" bị quên lãng"...

(Hạnh Linh sưu tầm)
(123/05-99)


---------------------
(1) Sđd, t.1 tr35
(2) M. Allem - Giới thiệu
Cha xứ ở Tua Pievret - Gariuer Frères. Paris 1961, tr.329.
(3) Kết thúc có hậu (tiếng Anh)
(4) (5) Sđd tr 54, tr 591



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.