"Núi rừng Yên Thế" - Sự thể hiện cảm hứng sử thi trong tư tưởng sáng tạo của Nguyên Hồng

10:17 17/02/2022


QUỲNH NGA

Ảnh: tư liệu

Bài viết đánh giá tác phẩm văn xuôi cuối cùng của Nguyên Hồng, tác phẩm viết theo thể tài tiểu thuyết lịch sử, nhằm thể hiện người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám với phong trào khởi nghĩa chống Pháp của nông dân Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cái khó cho chúng tôi là "Núi rừng Yên Thế" viết chưa xong, in chưa hết, chưa mấy ai giới thiệu, nghiên cứu nó(1). Chúng tôi hy vọng, qua khảo sát "Thù nhà nợ nước", sẽ trình bày nét nổi bật trong tư tưởng sáng tạo của Nguyên Hồng, đấy là cảm hứng sử thi.

Sử thi, ngoài nghĩa rộng và nghĩa hẹp chỉ loại hình tự sự và loại thể anh hùng ca, còn có nghĩa tu từ khi đề cập tới những sự kiện anh hùng, những chiến công kỳ vĩ, những quá trình biến chuyển phản ánh bước đi lớn lao của nhân dân, của lịch sử. Khái niệm sử thi ở bài viết được hiểu theo nghĩa thứ ba này.

Không phải hễ tiểu thuyết thì tất yếu chứa cảm hứng sử thi. Nhưng cảm hứng sử thi sẽ có điều kiện bộc lộ rõ nhất trong tiểu thuyết lịch sử. Với Nguyên Hồng, cảm hứng sử thi trải dài suốt quá trình sáng tác văn xuôi lẫn thơ ca, dù rằng Nguyên Hồng làm thơ chỉ là tay trái và chỉ nhằm làm "dịu đi cái đầu viết truyện bốc khói" của ông(2). Cảm hứng sử thi là nét bản chất trong tư tưởng sáng tạo của Nguyên Hồng.

Trên bình diện văn học, viết về Hoàng Hoa Thám và khởi nghĩa Yên Thế, trước Nguyên Hồng đã có Phan Bội Châu với tác phẩm "Chân tướng quân"(3), Hồ Chủ Tịch với kịch "Đề Thám"(4), Ngô Tất Tố với "Lịch sử Đề Thám"(5) và sáng tác dân gian "Mảng truyện kể về khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám lưu truyền trên đất Yên Thế"(6). Ngoài kịch "Đề Thám" của Hồ Chủ Tịch chưa tìm thấy và mảng truyện kể dân gian, các tác phẩm còn lại nói trên, cơ bản tập trung thể hiện lịch sử Đề Thám khi ông đã là thủ lĩnh nghĩa quân với những chiến công và cả cái chết bất đắc kỳ tử của ông. Các tác phẩm ấy cơ bản mang tính liệt truyện.

Nguyên Hồng trở về, lựa chọn và viết một cách say sưa đến cuồng nhiệt "Núi rừng Yên Thế", đây là một chứng giám cho nỗi lòng nhà văn đối với nơi ông đã sống gần nửa cuộc đời, nơi vừa đặt chân, ông đã bén rễ để rồi “không một ánh sáng phù hoa nào, một phú quí danh lợi nào lôi ông ra khỏi"(7). Viết "Núi rừng Yên Thế", Nguyên Hồng đi đúng mạch nguồn dân tộc, đã tâm huyết với đau thương dũng khí của ông cha. Nhà văn như muốn truyền tới đời sau bài học lịch sử vốn đã nung nấu trong hồn ông một thuở. Âu đây cũng là một biểu hiện của cảm hứng của sử thi vốn tiềm ẩn, gặp đất lành, bỗng nảy mầm một cách chắc khỏe! Viết "Núi rừng Yên Thế", với Nguyên Hồng là một điều giản dị vì đó là lịch sử của quê hương! Nhưng cũng thật khó khăn vì tính bí hiểm của lai lịch Đề Thám và tính phức tạp vô cùng của nguồn tư liệu để lại. Đi vào một đề tài như vậy, cái mạnh cái yếu của một ngòi bút tiểu thuyết vốn phóng khoáng tất phải bộc lộ.

Trước khi viết tiểu thuyết "Núi rừng Yên Thế", Nguyên Hồng đã đến với Hoàng Hoa Thám bằng cảm xúc thơ(8). Thơ khó dung nạp một qui mô hiện thực rộng lớn, Nguyên Hồng viết tiểu thuyết để làm sống lại thời kỳ bi hùng của một xứ sở.

Hình tượng được Nguyên Hồng dồn tâm thể hiện trước tiên là Yên Thế với chiều dày lịch sử của nó. Địa hình Yên Thế đã là đất dụng võ, cũng là nơi hội tụ những con người, những cuộc đời, những dòng họ đã vì nhiều lẽ, từ khắp nơi đổ về để đồi sỏi vỡ hoang, làm củi đi than, lội suối luồn rừng, cuốc đất vượt tro lập nên Yên Thế. Dưới ngòi bút Nguyên Hồng đầy cảm hứng lịch sử, Yên Thế trở nên rõ nét trong từng thời khắc, từng thiên cảnh, từng con người rất Yên Thế mà cũng rất Việt Nam, một Việt Nam những năm tháng chủ quyền rơi vào tay thực dân Pháp. Là người mãnh liệt cảm xúc, cởi mở trong lặng lẽ, nhà văn dường như cảm ứng được cái thiên khí Yên Thế. Vì lẽ đó, đọc "Thù nhà nợ nước", ta bắt gặp "ánh hồng rực lên nghi ngút khói như có một sông lửa tràn lũ", "những tiếng vang âm của gió, của rừng, của núi, của suối, của khe ngòi, của đồng không mông quạnh, của thăm thẳm trời mây, của hun hút đêm tối". Yên Thế là vậy! Và rồi, từ trang huyền thoại về trăm con phượng hoàng lượn vòng Yên Thế chọn đất kinh kỳ cho đến cảnh giết trăn mắc võng, cảnh Nguyễn Cao tuẫn tiết... đã thôi thúc trong ta một cảm xúc vừa hư ảo hoang sơ vừa chắc khỏe gồ ghề. Yến Thế là vậy!

Phải nói rằng, trí tưởng tượng phong phú, kết hợp với những suy ngẫm về chí khí ông cha đã giúp Nguyên Hồng tái tạo thật sinh động, thật rung cảm về một Yên Thế du thủ, du thực, nhưng giết người không vì của mà vì việc nghĩa; một Yên Thế đánh giặc phương Bắc, phương Tây từ Cai tổng Vàng, Cai Kinh đến Đề Nhân, Đốc Văn, Thơm..., một Yên Thế trầm hùng... Bằng đôi cánh tưởng tượng đầy chất lãng mạn, Nguyên Hồng đã nâng Yên Thế vốn chìm trong xa xưa bay về với thời đại hôm nay.

Rõ ràng, ở "Thù nhà nợ nước", tính sử thi của cảm hứng Nguyên Hồng đã được đánh dấu trước tiên bằng sự trở về và làm sống dậy trong bạn đọc một Yên thế với tư cách là chứng tích lịch sử oai hùng của dân tộc, chứng tích của tình người, tình đời sâu lắng ngầm chảy trong mạch thời gian.

Thế nhưng, không chỉ mô tả Yên Thế trong tĩnh tại, tiến thêm một bước, Nguyên Hồng đã khắc họa Yên Thế thông qua biến cố lịch sử - cuộc kháng Pháp của Hoàng Hoa Thám, thông qua việc mô tả dòng đời đa dạng tiếp xúc với biến cố đó mà Thơm, tên gọi Hoàng Hoa Thám thuở nhỏ, là nhân vật trung tâm. Với nhân vật Thơm, ở "Thù nhà nợ nước", Nguyên Hồng đã làm sống lại tuổi trẻ một anh hùng áo vải.

Như đã nói ở trên, viết về Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và Ngô Tất Tố cũng chỉ dừng lại khắc họa đậm nét hình tượng Hoàng Hoa khi đã "đằng đằng một đấng anh hào" khiến cho "nhiều công sứ Pháp ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên và các tỉnh khác phải bạc đầu"(9). Nhưng, chỉ dừng lại đó, làm sao cắt nghĩa đầy đủ cái làm nên anh hùng Đề Thám.

Viết về nhân vật anh hùng, khó nhất vẫn là viết về thời kỳ tuổi trẻ, thời kỳ nẩy sinh, nuôi dưỡng, tích tụ tư chất anh hùng. Mà tuổi trẻ Hoàng Hoa Thám lại là thời kỳ đặc biệt khó viết. Đương thời, triều đình nhà Nguyễn và cả thực dân Pháp không sao khẳng định chắc chắn gốc tích Hoàng Hoa Thám. Nhân dân Yên Thế cũng đã thêu dệt bao chuyện hoang đường về ông. Bởi lẽ, vì sự tồn tại của dòng họ Trương mà mình là người sống sót, vì ý chí phục thù, Hoàng Hoa Thám đã cố ý mai danh ẩn tích, dấu biệt lai lịch.

Vượt lên trên hạn chế về tư liệu để lại, với khả năng cho phép của một ngòi bút tiểu thuyết, Nguyên Hồng đã khắc họa rõ nét chân dung tuổi trẻ Đề Thám. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh đoàn người tha hương lặng lẽ âm thầm trong đau thương cay cực trong can khổ kinh hoàng, cả trong hờn căm uất nghẹn, đã tụ hội giữa đêm rừng Yên Thế buồn ai oán. Trong dòng người chạy loạn đó, Thơm xuất hiện với những suy tư kín đáo, báo trước một cuộc đời khác thường: Thơm đã cùng người chú chạy trốn khỏi quê hương Hưng Yên chỉ vì ông nội và cha Thơm chống Pháp, bị xử chém treo ngành, dòng họ Trương Hưng Yên bị triệt hạ tàn khốc. Rời quê ra đi với nỗi oan gia mà càng ngày Thơm càng nấu nung rửa hận. Ngay đêm đầu ở rừng Yên Thế, trong đoàn người tha hương ấy, hành động chống lại Trương tuần đã khiến chú cháu Thơm bị bắt, bị tù, bị tra khảo..., rồi vượt ngục, rồi luồn rừng sâu, rồi gặp bạn nghèo, gặp ân nghĩa cưu mang, gặp đắng cay và hùng khí, gặp ý chí ông cha. Thơm trở thành Thám - Hoàng Hoa Thám - Đề Thám, một tướng lĩnh chống Pháp vô song.

Khắc họa Thơm, ngòi bút Nguyên Hồng kết hợp được nét thực gồ ghề chân chất nông dân với cái lãng mạn hoang dã của rừng núi để từ đó tạo nên dự cảm ở người đọc về một phong cách tướng lĩnh áo vải miền sơn cước: Thơm mặc áo thâm cúc tốt, quần nâu mới, khăn mỏ rìu, vai đeo nón gù lá già, chống gậy tre đầu bịt sắt trông chững chạc rạng rủa khác hẳn mọi trai trẻ mới lớn lên. Nhất là ở cặp mắt một mí quăng quắc, lông mày rậm hơi xếch, cặp mắt voi vừa tợn tạo gan lì vừa quả cảm; và bả vai rộng dày vậm vạp, vóc người tầm thước chắc nịch. Càng ngày, Thơm càng ít nói. Đã gan lì lại ít nói mà cứ luôn luôn đánh bạn với bọn đi rừng với những người đúng mực nhiều tuổi. Con người với tướng mạo như vậy, hẳn tiềm ẩn trong mình sự im lặng của đại ngàn chờ cơn giông bão trả "Thù nhà nợ nước". Im lặng chính là nét chủ yếu trong tính cách của Thơm. Xây dựng nhân vật Thơm, Nguyên Hồng dồn sức mô tả dòng chảy đa dạng tác động đến tiến trình Hoàng Hoa Thám. Đó là dòng chảy của huyền thoại, dòng chảy từ các tiên liệt Ba Vành, Hoàng Diệu, Cao Bá Quát, dòng chảy từ sự hiện diện của cụ Nguyễn Cao, cụ Đồ Mốc, ông thân sinh trò Bắc, Cai Cừ, vợ chồng bác Ngọ và cả của Thơm... Những trang viết này là những trang viết đạt nhất của ngòi bút yêu thương - ngợi ca rất Nguyên Hồng. Và cũng chính là sự bộc lộ thành công cảm hứng sử thi trữ tình - anh hùng ca cũng rất Nguyên Hồng.

Nhà văn đã cắt nghĩa những nguồn mạch đổ về tạo nên nhân cách Thơm. Nhờ vậy, hình tượng Thơm trở nên chân thực, rõ ràng như chính dòng chảy của đời Thơm. Vì thực dân Pháp, Thơm phải mồ côi cha mẹ, mồ côi dòng họ, mồ côi cả quê hương, phải nhập "đất thánh" Yên Thế để rồi từ đây trở thành "vị thánh" của Yên Thế một thời lừng lẫy. Thơm trưởng thành bằng chính sức lực của mình trong dòng sông ngầu bọt những đau thương oán hận. Thơm tắm mình cả trong dòng sông ngát xanh một màu đùm bọc và nghĩa cả. Thơm trở nên gan lì và trầm mặc trong ý chí phục thù.

Trên con đường hành hương, phục thù ấy, Thơm bị sập chông bị tù đày, bị tra khảo, để rồi sau đó Thơm vượt ngục, luồn rừng, làm rẫy phát nương, bắt trăn mắc võng, đón giữ trâu thuông... Thơm cùng Cai Cừ, trò Bắc luyện giáo rèn gươm đánh Pháp trận đầu. Kết thúc "Thù nhà nợ nước" là hình ảnh Thơm đã trưởng thành trong ý thức, trong hành động, trong sự tráng kiện đầy hứa hẹn của một anh hùng áo vải trẻ tuổi: Hoàng Hoa Thám.

* * *

Tiến trình Hoàng Hoa Thám được Nguyên Hồng trình bày và lý giải như tiến trình Yên Thế. Yên Thế ngày càng tỏ ra sung sức bởi sự trưởng thành của những con người bé nhỏ đủ loại, của đám lê dân tụ nghĩa. Tính nhân dân của phong trào Yên Thế kháng Pháp tất yếu ngòi bút tiểu thuyết của Nguyên Hồng thể hiện được.

Có điều, phẩm chất anh hùng của một phong trào hay một cá nhân bao giờ cũng được bộc lộ trong những tình hung anh hùng. Nguyên Hồng có ý thức lựa chọn, sắp xếp một hệ thống tình huống Thơm phải trải qua. Thế nhưng, sự đụng độ giữa kẻ thù và Thơm, chính xác hơn, hình tượng kẻ thù, phải được khắc họa để làm rõ nét tính cách của Thơm, Nguyên Hồng lại tỏ ra non tay. Ta thấy một Trương tuần hung dữ, một quan hai Pháp mặt ngựa hoảng sợ trước khí phách Tán Cao... Ta thấy được bộ mặt Thiên Chúa giáo trong vai trò mở đường cho cuộc xâm lược của Pháp qua hình tượng Phan Xi Cô và những tín đồ cuồng nhiệt như Trần Lục, Lang Hảo, Xoan Chột. Thế nhưng, những hình tượng đó, dù sao, cũng chỉ được Nguyên Hồng thể hiện trong nét đại lược thiếu hẳn bề dày và sinh khí cần thiết. Hình tượng kẻ thù mờ nhạt quá. Có thể, đây vẫn là nét hạn chế bất biến của ngòi bút Nguyên Hồng trong cái nhìn phê phán. Nếu Nguyên Hồng tỏ ra sắc sảo trong cảm hứng ngợi ca thì dường như hời hợt trong cảm hứng phê phán. "Nguyên Hồng là người ưa tô tượng đúc chuông chứ không phải là kẻ phá chùa".(10)

Viết "Thù nhà nợ nước", Nguyên Hồng nhằm dựng lại tiến trình Hoàng Hoa Thám trong tiến trình Yên Thế ở chặng đầu của nó với tinh thần lý giải cội nguồn đổ về và ngợi ca các anh hùng. Nguyên Hồng đã thành công trên phương diện này. Cảm hứng sử thi, chính vậy, được thể hiện trọn vẹn, nhuần nhất, không pha tạp, không đan chéo bởi những cảm hứng khác. Tất nhiên, điều đó sẽ giảm bớt vẻ đẹp của sự phong phú, đa dạng, nhưng lại có cái đáng yêu của vẻ đơn nhất. Thế cũng đủ cho ta thấy cái đa dạng từ "Người đàn bà Tàu"... đến cái đơn nhất của "Thù nhà nợ nước" trong cảm hứng sử thi của Nguyên Hồng.

1986 - 1992.
Q.N
(TCSH52/11&12-1992)

 

--------------------
(1) "Núi rừng Yên Thế" gồm 3 tập, Tập I "Thù nhà nợ nước", Hội Văn học Nghệ thuật Hà Bắc xuất bản, 1981. Tập II, "Nước mất nhà tan, ta sống thế nào đây" viết chưa xong, đã trích đăng chương VII trong: Tuyển tập Nguyên Hồng, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1985. Tập III đang soạn thảo.
(2) Nguyễn Tuân, Con người Nguyên Hồng. Tuyển tập Nguyên Hồng, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1983.
(3) 1917 - 1919, Tạp chí Binh sự Hàng Chân Trung Quốc, NXB Văn học, Hà Nội, 1967, Chương Thâu dịch.
(4) Viết ở Xiêm, 1929, đến nay chưa tìm thấy.
(5) Nhật Nam thủ quán xuất bản, 1935.
(6) Nguyễn Đình Bưu. Tạp chí Văn học, số 1/1975.
(7) Vô cùng thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng - Báo VN số 20 - 15/5/82.
(8) Bài thơ "Hoàng Hoa Thám quê xưa" - Trời xanh, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1960.
(9) E. Maliverney (L’homme du Jour - Le Đề Thám) - Imprimerie de Avenir Tonkin. Theo Tôn Quang Phiệt - tìm hiểu Hoàng Hoa Thám - Sở Văn hóa Thông tin Hà Bắc, 1984, tr.20.
(10) Nguyễn Tuân, Sđd, trang 59.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.