"Người đàn bà không hoá đá" - một cách hiện diện ở đời

16:13 23/04/2009
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

Nguyễn Thế Tường sinh ra bên dòng Kiến Giang thuộc vùng chiêm trũng Lệ Thuỷ - Quảng Bình. Anh đã từng là sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp. Sau đó nhập ngũ, là lính tăng thiết giáp và đã tham chiến tại Quảng Trị vào năm 1973, thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh giải phóng. Dễ nhận thấy cái lý lịch “trích ngang” ấy đã trở thành chất liệu thẩm mỹ, thẩm thấu trong từng trang viết của Nguyễn Thế Tường. Cũng như nhiều người viết ở lứa U 50, cái tôi tự sự của Nguyễn Thế Tường luôn ngoái lại những ngày đã qua, mải miết “lội” ngược dòng, âm thầm phục sinh trong không gian, thời gian của quá khứ, của hồi ức và kỷ niệm. Khi là “một hạt bụi nào đó trong đáy sâu bộ nhớ tôi chợt động cựa”, khi là “những dòng kỷ niệm khẽ khàng nhỏ từng giọt sánh như mật”. Cứ như thế thời gian quay ngược lại nhiều chục năm về trước. Dõi theo mạch tự sự đồng hành cùng quá khứ của Nguyễn Thế Tường, người đọc thấy thấp thoáng hình bóng của người viết, như tự thuật về mình, về thế hệ mình. Vì vậy trong từng trang của Người đàn bà không hoá đá, người đọc như cũng nhận thấy bóng dáng mình, bóng dáng của bạn bè và cả cái thời mình đã sống với những niềm yêu, nỗi nhớ cùng những hoài bão và ước vọng...

Hàng ngày, hàng giờ sống trong một hiện tại bị phong toả bởi cuộc mưu sinh với bao lo toan, bận rộn, các nhân vật của Nguyễn Thế Tường đã hơn một lần vượt thoát về quá khứ. Dường như với Nguyễn Thế Tường, cái quá khứ đẹp như huyền thoại, đầy mê hoặc không chỉ làm giàu có mà còn là sức mạnh nâng đỡ tinh thần con người trong đời sống hôm nay. Dòng ký ức của các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thế Tường có những trường đoạn thuần khiết, ngọt ngào với trò chơi “chấp me - che muống” của trẻ nhỏ, mang đậm bản sắc địa phương, ồn ào mà gợi cảm (Tiếng hú trên đồng). Là những cuộc lang thang đầy thú vị của đám trẻ nghèo trong làng, bất ngờ “khám phá” ra một không gian đầy ánh sáng và màu sắc: “vàng mơ hoa giêng giếng”. Loài hoa có cái tên là lạ với màu vàng rất riêng của nó mãi mãi ám gợi ký ức tuổi thơ của nhân vật tôi (Hoa giêng giếng). Là hình ảnh dịu dàng, với cái nhìn chia sẻ, khích lệ của cô giáo năm xưa đã xua tan mặc cảm thân phận của một cậu bé nghèo phải ở truồng đến lớp học vỡ lòng, mà ngay từ thời ấy, cậu bé chỉ mơ ước có cái quần để mặc đi học (Bài học đầu tiên).

Đọc truyện ngắn Nguyễn Thế Tường, người đọc có cảm giác anh là người không quên thời gian, luôn sống với thời gian hai chiều quá khứ và hiện tại. Và như thế trong văn xuôi Nguyễn Thế Tường, tiếng của ngày qua luôn đồng vọng với hôm nay. Người đọc cảm nhận được từng khoảng sống của người viết qua những kỷ niệm về thời sinh viên hoá thân trong nhân vật tôi hay nhân vật ở ngôi thứ ba nào đó, gắn với một thời gian khó trong những lớp học, những bữa cơm sinh viên nơi sơ tán. Là những cuộc đối thoại hoà trộn chất lính và chất sinh viên, đặc biệt là những giai thoại vui nhộn, hài hước của người lính vốn là cựu sinh viên văn khoa. Và cảm hứng sáng tác của Nguyễn Thế Tường như lãng mạn hơn khi viết về những thoáng cảm đầu đời, phảng phất hương vị tình đầu trong ngôn ngữ của ánh mắt, của hơi ấm bàn tay với người bạn gái thuở sinh viên. Những cảm giác ấy “như nỗi nhớ dây dưa” cứ đeo đuổi, bám riết nhân vật từ ngày tạm biệt giảng đường đại học cho đến những ngày là lính tăng thiết giáp trên một vùng đồi huấn luyện ở miền Bắc hay trước giờ tham chiến tại Quảng Trị và thậm chí ngay cả trong cuộc sống đời thường hôm nay (Trận đánh cuối cùng).

Trong thế giới truyện ngắn của Nguyễn Thế Tường, người đọc như bị ám ảnh với những nhân vật là những con người bình thường, giản dị trong các truyện Thím Thao, Bà Kiểm điên, Người đàn bà không hóa đá, Người chưa gặp, Tìm em, Trận đánh cuối cùng. Những nhân vật của Nguyễn Thế Tường là những con người ta vẫn gặp thường ngày rồi nhanh chóng lướt qua. Nhưng Nguyễn Thế Tường đã không quên và luôn trăn trở về họ. Với một cái tôi mẫn cảm, giàu trắc ẩn, Nguyễn Thế Tường đã hướng ngòi bút vào những tình huống, cảnh ngộ, khiến ta không thể lãnh đạm, gợi cho ta phải nghĩ ngợi, phải nhìn lại sự vô cảm, hờ hững của chính mình. Trong các truyện nói trên, Nguyễn Thế Tường tạo dựng được những tình tiết bất ngờ, kích thích sự tò mò của người đọc nhưng anh không bị sự kiện và tình tiết lôi kéo mà quan tâm đến tính cách và thân phận con người trong những hoàn cảnh cụ thể. Đó là phẩm chất trung thực, hết lòng vì công việc của một phụ nữ làm công tác kiểm ngân, cái phẩm chất ấy mãi theo bà như một “hội chứng” lúc về già (Bà Kiểm điên); là người công an âm thầm làm một công việc bình thường nhưng hữu ích, thậm chí phải đổ máu, hy sinh cho sự bình an của cuộc sống con người, bảo vệ đường hầm của tuyến đường sắt Bắc Nam (Người chưa gặp).

Người đàn bà không hoá đá là một truyện hay kể về một người đàn bà không chịu đầu hàng số phận, không chịu “hoá đá”, vượt lên định kiến của xã hội, tự tìm niềm vui, sự sống cho chính mình và cũng là cách thế hiện diện ở đời của những người đàn bà cùng cảnh ngộ như chị. Người đọc không khỏi rưng rưng cảm động về sự quên mình của chị Bùi, nhân vật trong truyện hơn một lần chờ đợi trong chiến tranh và trong cả thời bình, đã nuốt vào bên trong bao nhiêu giọt buồn, giọt nhớ, cuối đời nhọc nhằn sống và âm thầm cam chịu bên người chồng vô tri vô giác, đã từng là chiến sỹ ngoan cường trên đoàn tàu không số năm nào. Chỉ từng là lính xe tăng, Nguyễn Thế Tường mới hiểu được một sự thật luôn làm ta nhức buốt: “Trong chiến tranh, anh bộ binh chân bước trên đất, nằm xuống trong đất. Anh lính thuỷ hy sinh trên biển còn được sóng đánh vào bờ. Cả người phi công bay trên trời có mệnh hệ nào cũng được rơi xuống đất mẹ. Còn người lính xe tăng chết lại được hoả táng trong xe thành khói bay lên trời”. Điều đó giải thích vì sao nhân vật người chị trong truyện Tìm em đã đến tận nơi xảy ra trận đấu tăng lịch sử vào thời điểm nóng bỏng của cuộc chiến ở Cửa Việt để tìm hài cốt người em trai mà không thấy mộ, toàn thấy những cát là...cát và chỉ có thể bốc một nắm cát trắng đem về với nỗi đau không thể nói thành lời. Đằng sau dáng vẻ đời thường, bình dị đến khiêm nhường, các nhân vật của Nguyễn Thế Tường dường như tiềm ẩn sức mạnh khả dĩ chống đỡ với những hiểm nghèo, những rủi ro, những đau đớn giáng vào chính họ. Những con người bình thường mà cao khiết hiện diện trong văn xuôi của Nguyễn Thế Tường khiến tôi nhớ tới những câu thơ trong bài thơ Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời của Evtushenko, nhà thơ lớn của nước Nga: Dẫu anh sống chỉ một đời lặng lẽ / Quen với cái lặng thinh không tô vẽ cho mình / Thì lại chính cái lặng thinh nhường ấy / Biến anh thành đáng nhớ với xung quanh” (Bằng Việt dịch - Thơ trữ tình thế kỷ XX.Nxb Văn học,2005).

Trong tập Người đàn bà không hoá đá, Nguyễn Thế Tường không chỉ tỏ ra sở trường và có nghề khi khai thác chất liệu cái tôi, vớái những gì gần gũi và thuộc hiểu như mảnh đất Quảng Bình quê anh, như đời sống của cánh lính tăng thiết giáp mà khi đến với những sáng tác ngoài mình như Đăm noi, anh cũng gây được ấn tượng về cuộc sống và con người Tây Nguyên. Cái cách lồng nhân vật của huyền thoại vào nhân vật của hiện tại, gắn không khí sử thi vào bối cảnh hôm nay buộc con người của hôm nay phải sống thật với chính mình, với quá khứ của chính mình là một minh chứng cho sự nỗ lực trong lao động nghệ thuật của người viết.

Trong truyện Nguyễn Thế Tường thường được kết cấu theo kiểu chuyện lồng trong chuyện, Với cốt truyện kép, tạo ra nhiều điểm nhìn trần thuật (Người đàn bà không hoá đá, Người chưa gặp, Bài học đầu tiên, Đăm Noi,...). Trong tập Người đàn bà không hoá đá, người đọc bắt gặp không ít những tình huống ly kỳ, hấp dẫn nhưng người viết không sa vào vụ việc mà đẩy con người lên phía trước với tất cả những gấp khúc của cuộc đời và thân phận, chính vì vậy mà câu chuyện vướng mắc trong tâm trí người đọc, dù trang sách đã khép lại. Đoạn kết trong truyện ngắn của Nguyễn Thế Tường thường “mở”, buộc người đọc cùng nghĩ ngợi, liên tưởng và đồng sáng tạo.

Với Người đàn bà không hoá đá, một lần nữa Nguyễn Thế Tường chứng tỏ sức viết của một ngòi bút đã ổn định nhưng không dừng lại với những gì đã quen thuộc. Trong một chừng mực nào đó, tác giả của Người đàn bà không hoá đá đã có những bứt phá, đổi mới so với bốn tập truyện và ký trước đó của anh. Trên hành trình sáng tạo tiếp theo, người đọc mong muốn Nguyễn Thế Tường mở rộng hơn “vùng phủ sóng” đồng thời dứt khoát hơn trong lựa chọn thể loại, tránh được sự dùng dằng giữa truyện và ký (Những đứa con của cát, Hai người lính). Thời gian gần đây, ngòi bút Nguyễn Thế Tường “theo dòng lịch sử”, đã chạm đến những tầng vỉa của một quá khứ xa, là một phần không thể thiếu của lẽ sống hôm nay. Và những bài viết trở về nguồn đứng tên Nguyễn Thế Tường vẫn lần lượt được đăng tải hàng tuần trên Văn nghệ Trẻ.

B.T
(202/12-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ MINH PHONG

    Chúng ta không rũ bỏ được Thượng Đế
    Vì chúng ta vẫn tin vào ngữ pháp

                                  (Nietzsche)

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Chiều ngày 12/5/2014, tôi nhận được món quà vô cùng quý giá, đó là cuốn sách Hải Triều Toàn Tập do chính gia đình của Nhà văn hóa, Nhà báo Hải Triều gửi tặng.

  • Nhà văn Trang Thế Hy đã bước vào tuổi 90. Một đời viết kéo dài suốt 70 năm, ông không viết nhiều nhưng hễ công bố tác phẩm là làng văn phải “giật mình”

  • Xin nói ngay rằng, đọc tập truyện Giọt nước mắt màu đất của Đức Ban (NXB Hội Nhà văn 2014), với tôi Chốn xưa là một truyện ngắn hay.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Trong số các nhà thơ, nhà văn quê hương Quảng Trị, Vĩnh Mai không phải là một tên tuổi lớn như Chế Lan Viên hoặc Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng ông vẫn là một tác giả đáng ghi nhận, một nhân cách đáng kính, một người trí thức đầy lòng tự trọng, một người yêu nước chân chính.

  • THẢO LINH 

    Đà Lạt thành phố của ngàn hoa với những con đường trập trùng quanh phố núi với ảo diệu sương mù. Đà Lạt với cảnh sắc hữu tình và thơ mộng đã đi vào thi ca, nhạc họa từ bao đời nay và còn tiếp tục làm say lòng bao người đến kẻ đi.

  • TRẦN TRIỀU LINH

    (Đọc Đi ngược đám đông - Thơ Đông Hà, Nxb. Thuận Hóa, 2014)

  • UYÊN PHƯƠNG 

    Bạn đang sống ở Thủ đô Hà Nội ngàn năm cổ kính hay giữa Sài Gòn hoa lệ vàng rực ánh nắng hoặc giả có thể ở bất cứ thành phố náo nhiệt nào trên đất nước Việt Nam? Bạn đang hòa mình vào nhịp sống đô thị với đầy ắp sự văn minh, hiện đại nhưng cũng khá ồn ào và bụi bặm, thậm chí có lúc bạn cảm thấy chán nản muốn rời xa sự xô bồ và ngột ngạt của chúng?... Vào lúc ấy, chắc hẳn bạn sẽ rất vui nếu được đi đâu đó vài ngày… Cảm giác khi tạm rời xa nơi thành phố cũng rất tuyệt”.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    Thơ Tân hình thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” là công trình Tạp chí Sông Hương phối hợp với Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành vào tháng 6 năm 2014.

  • Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - gọi thân mật là Nguyên “đầu bạc” (vì mái đầu bạc trắng từ lúc còn trẻ) - một người xứ Nghệ “thuần chủng” cha ở Nghệ An, mẹ ở Hà Tĩnh, nhưng đang là Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Có thể nói cuốn “An lạc mùa chay - Món chay dâng Mẹ” của nhà thơ, chuyên gia ẩm thực Hồ Đắc Thiếu Anh (Nxb. Phụ Nữ, 2014) vừa được Nhà sách Phương Nam ấn hành trong tháng tám vừa qua, là cuốn sách thực hành về sự an lạc.

  • Tiếp sau Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh..., đến lượt Phan Khôi được mở hội thảo khoa học tại quê hương Quảng Nam hôm qua 6.10, đúng 127 năm ngày sinh của ông, để vinh danh một con người đa tài.

  • (Phỏng vấn đối thoại với các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc và nhà thơ Trần Dần)

  • Hữu Loan [1916-2010 là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca Việt Nam đương đại từ non 70 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự.

  • Tiểu thuyết "Công chúa nhỏ" của Frances Hodson Burnett kể câu chuyện về cô tiểu thư thất thế, nhưng vẫn mang trong mình cốt cách lớn.

  • (Vài cảm nhận khi đọc “BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA” tiểu thuyết của nhà văn TRƯƠNG VĂN DÂN
    (cty vh Phuong Nam-Nxb Hội Nhà văn, 2011)

  • “Lịch sử không bao giờ lầm lẫn, nhà văn Lan Khai là người có công với nước”. Câu nói đó của Thiếu tướng Hoàng Mai đã khẳng định những cống hiến của Lan Khai đối với cách mạng và nền văn học nước nhà. Từ thành tựu sáng tác cho đến nhận định của các nhà văn, nhà báo tiền bối (Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan...) về Lan Khai, chúng ta càng thấy tự hào về một con người, một nhà văn đáng kính đã làm trọn thiên chức của mình đối với dân tộc...

  • “Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu cũng vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước…”

  • Khi cầm bộ sách này trong tay thì hình ảnh nhà nho yêu nước Phạm Phú Thứ không còn bị khuất lấp trong lớp sương mù thời gian mà hiện ra rờ rỡ, rõ ràng trước mắt chúng ta với một tâm thế mới.