"Ngày hồng" cung nhớ cung thương

14:51 18/05/2023

VÕ QUÊ

Ngày hồng (Nxb. Thuận Hóa, 2023) như tên gọi tập thơ là cả một cuộc hành trình dài “kỷ niệm bốn mươi tám năm ngày thống nhất đất nước”, “kỷ niệm bốn mươi tám năm chuyến đò dọc hẹn ước của Duy Mong - Xuân Thảo”.

Ngày hồng gắn kết thời gian giữa quê hương với cuộc tình rất Huế của hai người: “Bốn sáu năm vui cảnh thái hòa/ Bắc Nam sum họp ấm lời ca/ Chuyến đò ước hẹn ngày xưa ấy/ Con nước thuận dòng đẹp bến mơ”. (Ngày hồng)

Bằng tấm lòng yêu thơ rất thiết tha, tiếp theo các tập thơ Hương Quê, Tình thơ, Thương về kỷ niệm, Duyên quê, Tình thơ Hương - Hiếu, Điệp khúc mùa xuân, Mùa hoa khế, Niềm nhớ… đã được những người yêu thơ trong và ngoài nước hân hoan đón nhận trong sự mến mộ, thiện cảm, nay nhà thơ Hoàng Xuân Thảo đã rất tâm huyết khi thực hiện thi phẩm Ngày hồng.

Ngày hồng tập hợp nhiều bài thơ với nhiều đề tài khác nhau, phong phú, đa dạng nên nhà thơ Hoàng Xuân Thảo đã khéo léo sắp xếp khoa học, kín đáo theo từng chủ đề riêng mà người đọc tinh ý sẽ nhận ra. Ấy là các chủ đề về tình yêu quê hương đất nước, tình yêu và hạnh phúc, về cha mẹ kính yêu, về đạo pháp, về mối quan hệ thân tình, gắn kết, giao lưu thơ văn giữa các thi hữu…

Trân trọng, tôn vinh vẻ đẹp mộng và thơ của Huế, thương quý nơi chốn mình đã gắn bó nhiều năm tháng trong cuộc đời, nơi chốn Hoàng Xuân Thảo đã từng được tạo nghiệp, đã từng tìm đến, tức cảnh thành thơ nhờ vậy các địa danh quen thuộc từ quê nhà yêu dấu tỏa sáng trong từng nhịp điệu thơ nồng nàn, da diết, chân thành, giàu cảm xúc: “Cố đô thành Huế mến thương/ Vương vương hoa nắng đẹp đường phượng bay/ Cổ thành Đại Nội xưa nay/ Vạn Niên lưu dấu đắm say lòng người…” (Huế xưa và nay); “Sóng nước Tam Giang gợi bao niềm nhớ/ Giữa mênh mông sương khói hoàng hôn…” (Chiều Tam Giang); “Kế Môn trăng nước hữu tình/ Ô Lâu sóng gợn đón bình minh lên/ Lung linh nắng trải bờ êm/ Đồng xanh chim hót bên thềm võng đưa…” (Kế Môn quê em); “Kim Hoàn lăng mộ trang nghiêm/ Hương hoa tưởng niệm dâng lên tổ nghề/ Lòng thành tâm nguyện hướng về/ Nhờ ơn tổ nghiệp truyền nghề hậu lai” (Tâm nguyện).

Tình yêu, hạnh phúc từ lâu đã là mạch nguồn không hề vơi trong thơ Hoàng Xuân Thảo. Trữ tình, mộng mơ, hoài niệm, chung thủy là điểm nhấn chính hàm chứa nhiều cung bậc trong các bài thơ viết về tình yêu của người thơ nữ tài hoa, tâm thành.

Trữ tình, mộng mơ: “Tình yêu - khúc nhạc tuyệt vời/ Cung thương cung nhớ đẹp lời trăm năm/ Tình yêu tựa ánh trăng rằm/ Dịu dàng trong sáng long lanh hiền hòa” (Tình yêu); “Mùa thu vàng lá me bay/ Tình ai mong nhớ mộng say tháng ngày/ Tiễn nhau tay nắm bàn tay/ Người đi kẻ ở đong đầy nhớ thương” (Tình thu); “Chênh chao vạt nắng lưng đồi/ Hanh hao sợi nắng bồi hồi tâm can/ Cuối thu xao xác lá vàng/ Trong tôi thoáng chút ngỡ ngàng sang đông” (Hanh hao hạt nắng).

Hoài niệm: “Sông Ngự Hà qua bao mùa mưa nắng/ Vẫn trong ngần thơm dòng chảy xanh mơ/ Anh và em đắm chìm trong nỗi nhớ/ Nhớ mái nhà em bên gốc muối ngày xưa” (Một thời để nhớ); “Phượng lã mơn man tà áo trắng/ Má ửng hồng xuyên vạt nắng vàng sân/ Em đi tìm ngày xanh thơm kỷ niệm/ Dệt thành thơ hoài niệm thuở hoa niên” (Ngày xanh).

Thủy chung như nhất: “Anh là tất cả trời thơ/ Cho em thương nhớ từng giờ ngóng trông/ Yêu anh từ độ trăng tròn/ Bây giờ thất thập mãi còn yêu anh” (Yêu); “Cau trầu kết nối chỉ hồng/ Tơ trời buộc chặt vợ chồng nên đôi/ Cau trầu hòa quyện hương vôi/ Tình chồng nghĩa vợ trọn đời thủy chung” (Duyên thắm trầu cau).

Những bài thơ viết về tình yêu của Hoàng Xuân Thảo đã lung linh nguồn hạnh phúc. Nguồn hạnh phúc có thật giữa đời thường vô cùng kỳ diệu: “Tình yêu là mối tơ vương/ Trăm năm chung lối chung đường có nhau/ Ân tình trước cũng như sau/ Nâng niu chăm chút bên nhau trọn đời” (Tình yêu).

Một đề tài khác trong Ngày hồng của nhà thơ Hoàng Xuân Thảo là tình cảm thiêng liêng kính quý song thân. Chỉ bốn câu thôi nhưng đã làm ánh lên những hình ảnh có giá trị đề cao ơn nghĩa sinh thành: biển rộng non cao, suối vàng, miền tịnh độ, đất lành. Niềm hiếu thuận của Hoàng Xuân Thảo hướng về cha mẹ quá lớn lao nên lời nguyện cầu càng sâu dày sự ngưỡng vọng: “Cha mẹ biển rộng non cao/ Suốt đời ghi nhớ công lao sinh thành/ Suối vàng cha mẹ siêu thăng/ Nguyện miền tịnh độ đất lành kết hoa” (Nguyện cầu).

Bên cạnh bài Nguyện cầu kính dâng cha mẹ, nhà thơ Hoàng Xuân Thảo còn sáng tác nhiều bài thơ về Mẹ: Đong đầy nỗi nhớ, Mẹ, Đôi tay mẹ, Nhớ lắm mẹ ơi!, Giỗ mẹ - Mùa Covid 19… Mỗi bài đều có một tứ thơ riêng với những thời điểm, hoàn cảnh, xuất xứ khác nhau nhưng chung một suối nguồn yêu kính mẹ hiền. Khi thì ngợi ca: “Ơn của Mẹ như trời cao biển rộng/ Dẫu đi đâu con không thể nào quên/ Bàn tay mẹ ươm mầm xanh vào đất/ Cho đời con vững bước đón vầng đông” (Đôi tay mẹ); Lúc thì tưởng nhớ, tiếc thương hoài niệm: “Dâng hương giỗ mẹ nghẹn ngào/ Nhìn lên di ảnh lệ trào khóe mi/ Vườn xưa hoa lá thầm thì/ Nhớ ngày bên mẹ bút ghi nghẹn lời/ Công ơn cha mẹ biển trời/ Các con tạc dạ suốt đời không quên” (Đong đầy nỗi nhớ).

Ngợi ca bốn mùa thiên nhiên Huế xưa nay là một trong những nguồn cảm hứng bất tận của giới văn học nghệ thuật. Riêng với nhà thơ Hoàng Xuân Thảo mùa xuân Huế dường như quán xuyến hơn trong tập thơ: Xuân An thịnh, Chờ Xuân, Hoài Xuân, Xuân an lạc, Xuân trong mắt lá, Xuân ước vọng, Sắc Xuân, Chúc Xuân, Mừng Xuân, Chào Xuân… Những chữ Xuân trở thành điệp khúc khi gọi tên những bài thơ viết về mùa xuân trong Ngày hồng.

Xuân của nhà thơ Hoàng Xuân Thảo hiện hữu bàng bạc muôn nơi giữa đất trời thanh khí. Có khi xuân trong mắt lá hồn nhiên, lạc quan tràn hương sắc: “Tôi đi tìm mùa xuân trong mắt lá/ Giữa ngày đông chồi biếc vẫn đơm hoa/ Lòng chờ đợi nắng xuân về sưởi ấm/ Cho muôn hoa ngào ngạt tỏa hương xa” (Xuân trong mắt lá); Xuân trong khát nguyện bình yên dù đang trong thời điểm bất trắc, đầy thử thách: “Giã từ nhé năm hai ngàn hai mươi/ Xin đón chào năm hai ngàn hai mốt/ Cùng ước vọng một tương lai xanh tốt/ Khắp toàn cầu rực rỡ ánh xuân tươi/ Hãy xua tan dịch Covid 19/ Cho muôn loài chan chứa vạn niềm vui” (Xuân ước vọng).

Qua những bài thơ Xuân trong Ngày hồng, người đọc hiểu nhiều hơn về một Hoàng Xuân Thảo có tấm lòng nhân hậu, chân thành, luôn quan tâm những số phận người trong cuộc sống quanh mình; và chính nhờ tinh thần vị tha, nhiều mơ ước đẹp ấy mà thơ Hoàng Xuân Thảo trong sáng, thanh thoát trong từng câu chữ: “Những đóa hoa hồng thắm sắc tươi/ Xuân về chúm chím thắm môi cười/ Đón tia nắng mới tròn mơ ước/ Kết nối yêu thương đẹp cuộc đời” (Đẹp ước mơ).

Là một Phật tử thuần thành, được sinh ra, lớn lên trên thành phố Huế, xứ sở của chùa chiền, bảo tháp, nhà thơ Hoàng Xuân Thảo đã thấm nhuần tinh hoa Phật pháp, đã có nhiều sáng tác về Phật giáo được phổ biến sâu rộng trong công chúng yêu thơ. Mối quan hệ tốt đẹp với các bậc danh sư từ các ngôi chùa nổi tiếng ở Huế đã giúp Hoàng Xuân Thảo giàu có thêm nhiều đóa thiền thi đẹp, lành trong dòng thơ về đạo hạnh: “Sân hận làm chi giữa cuộc đời/ Hãy gom buồn giận thả ngàn khơi/ Cho lòng thanh thản tâm tươi sáng/ Gặp gỡ trao nhau những nụ cười” (An lạc tâm); “ Nương bóng từ bi dưới Phật đài/ Thân tâm an lạc ánh Như Lai/ Trưa chiều kinh kệ lòng thanh thản/ Sáng tối chuông ngân trí tịnh khai/ Buông bỏ niềm vui ngoài tục lụy/ Xua tan hạnh khổ chốn trần ai/ Đường tu chánh niệm mang tên đạo/ Thích Nữ Liên Nhàn thọ bát trai” (Nương bóng từ bi).

Do sinh hoạt lâu năm trong môi trường thi ca, có mối quảng giao rộng trong làng thơ Huế nên nhà thơ Hoàng Xuân Thảo đã được các thi hữu tin cậy, trao gửi niềm thương yêu bằng tình văn nghệ tốt đẹp, rồi từ ấy các bài thơ xướng họa, chúc tụng được đề tặng nhau rất đỗi thâm tình. Duyên thơ kết nối, sự gắn bó lâu bền, Hoàng Xuân Thảo đã phát huy thế mạnh của mình trong thể loại thơ này: “Trải bao sóng gió cuộc đời/ Giờ đây mừng chị thảnh thơ tuổi già/ Vườn xuân hòe quế trổ hoa/ Tám mươi cung chúc vượt đà trên trăm” (Chúc mừng sinh nhật chị Hoài An); “Chín mươi xuân đẹp mộng đời/ Sáu mươi tuổi Đảng rạng ngời vinh quang/ Mừng Đảng - ca khúc khải hoàn/ Mừng thọ - chúc Bác lên hàng tuổi trăm” (Chúc mừng Thi lão Phan Xuân Lộc).

Mừng Ngày hồng đang ngời lên ánh dương quang mới! Xin lần giở Ngày hồng bằng tình yêu thơ lắng sâu nguồn rung cảm, trang trọng:

“Ngày hồng tươi thắm đơm hương sắc
Tô điểm vườn xuân giữa Huế thơ”.

V.Q
(TCSH48SDB/03-2023)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)