"Long Thành cầm giả ca" một bài thơ đáng quý của thi hào Nguyễn Du

09:13 07/11/2011
PHAN HỒNG MINH «Long thành cầm giả ca» là bài thơ mở đầu phần «Bắc hành tạp lục» trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1). Bài thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời «dâu bể» của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.

Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Đây là một bài thơ rất đáng quí. Đáng quí không chỉ vì nó là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của ông; nó thấm đượm lòng yêu thương vô bờ và sự cảm thông vô hạn của nhà thơ tới những người phụ nữ bị xã hội phong kiến hắt hủi vùi dập, mà quan trọng hơn là trong bài thơ này Nguyễn Du còn phản ánh được nét đẹp tâm hồn của các tướng lĩnh Tây Sơn, những nghĩa binh Tây Sơn, những người đã một thời bên kia chiến tuyến với ông, điều các tác phẩm văn học đương thời ít đề cập, thể hiện được.

Chúng ta đều biết phong trào nông dân Tây Sơn là một cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại, lừng lẫy vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc. Song đáng tiếc là văn học lúc bấy giờ chưa phản ánh đúng tầm vóc lớn lao của nó. Đã thế hầu hết các tác phẩm ca ngợi, phản ánh nó lại tập trung thể hiện những chiến công quân sự thần kỳ, nền triều chính Tây Sơn tốt đẹp, đặc biệt là đề cao, ca ngợi người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ là chủ yếu. Do vậy dòng văn học phản ánh phong trào nông dân Tây Sơn, triều đại Tây Sơn đạt được những thành tựu xuất sắc trong thể văn chính luận và mang nặng bút pháp tự sự nhưng lại hiếm đi chất trữ tình sâu lắng, chưa lột tả được vẻ đẹp tinh thần của đội quân «áo vải cờ đào». Công bằng mà nói thì «Hoàng Lê Nhất Thống chí», «Ai tư vãn» và «Văn tế Quang Trung» có phản ánh được ít nhiều vẻ đẹp tâm hồn của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Đành rằng Nguyễn Huệ chính là sự kết tinh sức mạnh, trí tuệ, tâm hồn sáng ngời chính nghĩa của đội quân Tây Sơn song sự phản ánh đơn điệu như vậy sao khỏi phiến diện, nghèo nàn, làm lu mờ tính chất quần chúng của cuộc khởi nghĩa vĩ đại này. Với bài thơ «Long Thành cầm giả ca» hình ảnh những người Tây Sơn không phải là chủ đề chính, là cảm hứng chủ đạo như hình ảnh Nguyễn Huệ trong «Ai tư vãn», «Văn tế Quang Trung» và một số hồi ở «Hoàng Lê Nhất Thống chí». Nguyễn Du đề cập đến họ như một yếu tố, một mắt xích trong số phận nhân vật chính - người ca nữ tài hoa - mà ông yêu mến. Vẻ đẹp của họ toát lên từ bài thơ chính là thông qua thái độ trân trọng nâng niu người ca sĩ đất Long Thành vốn vẫn bị xã hội phong kiến hắt hủi, khinh miệt. Nguyễn Du đã đặc tả ca nữ với ngón đàn tuyệt diệu trong một đêm tiệc lớn của các tướng lĩnh Tây Sơn:

«Xuân độ ấy đang hồi ba bảy
Ánh hồng trang lộng lẫy mặt hoa
Não người vĩ rượu ngà ngà
Năm cung dìu dặt nãy qua phím đàn
Tiếng khoan thoảng thông ngàn gió thổi
Tiếng trong như hạc gọi xa xăm
Mạnh như Tiến Phúc sét gầm
Buồn như tiếng Việt Trang nằm đau rên».

Tiếng đàn vô song đó đã thấm vào tâm hồn từng người lính, từng tướng lĩnh Tây Sơn, khiến họ quên cả nỗi mệt nhọc sau cuộc «Trường chinh vạn dặm»:

«Ai nấy nghe nhường quên mệt mỏi
Rõ tiếng đàn đại nội trung hòa
Tây Sơn quan khách la đà
Mảng vui quên cả tiếng gà tan canh»

Rõ ràng những nghĩa binh Tây Sơn không chỉ anh hùng trong chiến trận mà còn rất hồn hậu, nhân ái trong cuộc sống. Họ biết phân biệt tà chính để đứng dưới ngọn cờ đào của Nguyễn Huệ biết «hành binh như bay, tiến quân rất gấp» đánh Nguyễn, diệt Trịnh, đuổi Xiêm, phá Thanh nhưng cũng biết rung động trước những cái hay cái đẹp trong cuộc sống. Trước tiếng đàn «quân thiên nhã nhạc ai bì» ấy của người thiếu nữ Long Thành họ lắng nghe quên cả đêm khuya thanh vắng, rồi tranh nhau bày tỏ mối thiện cảm với một thái độ phóng khoáng, trân trọng:

«Tả lại hữu tranh giành gieo thưởng
Tiền như bùn ước lượng qua qua
Vương hầu thua vẻ hào hoa
Ngũ lăng chàng trẻ ai mà kể chi»

Thậm chí đến mức tôn thờ ca nữ như một vật báu vô song: «Tưởng chừng như ba mươi sáu cung xuân» chung đúc thành một vật báu vô giá của đất Trường An. Nếu chúng ta biết trước đó không hiếm những tác phẩm miêu tả đội quân Tây Sơn như một lũ người man rợ, võ biền, ngay cả ở thế kỷ 20 trong một số tác phẩm của «các nhà nghiên cứu văn học sử» dưới thời ngụy quyền Sài Gòn cũng miêu tả, nhận định những nghĩa binh Tây Sơn như thế(2), thì chúng ta lại càng biết ơn Nguyễn Du đã khách quan trong sự phản ánh. Vốn là con cháu một dòng họ danh gia vọng tộc của triều đình Lê - Trịnh, trong cuộc đời mình Nguyễn Du đã có lúc chạy theo Lê Chiêu Thống, bất hợp tác và có ý định chống đối triều đại Tây Sơn. Nhưng trong bài thơ này, bài thơ ông viết khi triều đại Tây Sơn đã sụp đổ, và nhà thơ đã trở thành một vị chánh sứ tin cẩn của triều đại nhà Nguyễn, thì Nguyễn Du lại phản ánh được phần nào bản chất tốt đẹp của đội quân Tây Sơn, Cùng thời với Nguyễn Du trong thiên tự truyện về cuộc duyên tình dở dang của mình Phạm Thái đã vẽ nên hình ảnh một viên quan Tây Sơn vũ phu, cục mịch(3). Còn dưới ngòi bút của Nguyễn Du thì các tướng lĩnh Tây Sơn lại là những người hào hoa phóng khoáng không thua kém những bậc vương hầu ở các vùng đất «Hoa Hạ» văn minh. Hơn thế họ còn biết nâng niu, trân trọng giá trị thực của con người. Hai mươi năm sau, vào thời điểm Nguyễn Du viết bài thơ này (1813) khi gặp lại người ca nữ xưa kia trong bữa tiệc bạn bè đưa tiễn ông, vị chánh sứ của triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Du bàng hoàng khi thấy con người tài hoa nhất thành, lộng lẫy khoe hương sắc trong bữa tiệc của các quan Tây Sơn giờ đây tàn tạ thu mình ngồi cuối chiếu đàn bản đàn ngày nào:

«Mé cuối tiệc một người nho nhỏ
Tóc hoa râm mặt võ mình gầy
Bơ phờ chẳng sửa đôi mày
Tài hoa ai biết đất này không hai»

Vẫn tiếng đàn xưa, tiếng đàn giúp Nguyễn Du nhận ra người quen biết tài hoa thuở nọ. Nhưng thân phận ca nữ giờ đây khác hẳn. Không một ai ngoài Nguyễn Du để ý đến nàng. Đâu phải chỉ vì giờ đây cô gái trẻ trung, phong nhã ngày xưa đã trở thành «một chị gầy gò, vẻ tiều tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỉ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng»(4) mà Nguyễn Du đau lòng. Ở đầu bài thơ, khi nhớ lại hình ảnh ca nữ trong đêm tiệc của các tướng lĩnh Tây Sơn Nguyễn Du không đặc tả nhan sắc ca nữ mà đặc tả ngón đàn của nàng. Trong lời tiểu dẫn bài thơ ông cũng ghi rõ rằng nàng «không đẹp lắm»(5). Nàng được những người Tây Sơn quí trọng, hâm mộ chính là nhờ tài đàn những bản nhạc «hay nhất ở trên trời cũng như giữa cõi người»(6). Ngón đàn ấy không tàn phai theo năm tháng. Nó trường tồn. Nhưng không phải lúc nào cũng có những khách tri âm hiểu và trân trọng. Nguyễn Du đau lòng «bồi hồi không yên, ngẩng lên, cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay»(7) là vì vậy. Phải chăng trong sự xót xa cho số phận ca nữ, cho «người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh, nhục, buồn, vui thật không lường trước»(8) được đó có bao hàm cả sự xót xa cho chính bản thân mình của nhà thơ? Phải chăng Nguyễn Du đau đớn vì nhận ra sự đối lập về bản chất giữa hai triều đại mà ông chứng kiến? Một triều đại ông từng quay lưng, lẩn tránh và có ý nghĩ chống đối thì giờ đây khi nó đã tiêu vong ông mới thấy nó đã làm được nhiều điều tốt đẹp cho con người, luôn vì con người - điều ông luôn mơ ước. Còn triều đại mà ông đi theo phục vụ lại chà đạp lên lý tưởng nhân văn của ông. Dù có muộn sự thức tỉnh trên vẫn là điều hết sức đáng quí. Không chối cãi được rằng trong cuộc đời Nguyễn Du có lúc có những hạn chế về nhận thức chính trị. Nhưng là một nghệ sĩ chân chính nhà thơ biết trăn trở suy xét để đi đến những nhận định khách quan. «Long Thành cầm giả ca» chính là sự thể hiện sinh động điều đó. Nó vừa đánh dấu sự chuyển biến trong nhận thức của nhà thơ, vừa chứng tỏ sự chiến thắng của chân lý hiện thực trong thơ ông. Tuy muộn màng nhưng nó đã góp một phần không nhỏ trong tiếng nói ca ngợi, phản ánh những nghĩa binh Tây Sơn, phong trào nông dân Tây Sơn. Nó xứng đáng được xếp là một trong những bài thơ hay nhất, có giá trị tích cực nhất trong tập thơ chữ Hán của ông.

Huế 1985
P.H.M.
(18/4-86)



---------------
1. Thơ chữ hán Nguyễn Du. NXB Văn học - Hà Nội 1978, tr.231.
2. Dẫn theo «Góp phần tìm hiểu phong trào Tây Sơn Nguyễn Huệ» - Sở TTVH Nghĩa Bình 1983, tr. 33 - 92.
3. Phạm Thái. Sơ kính tân Trang. Lại Ngọc Cang khảo thích, giới thiệu. NXB Văn hoá, Hà Nội 1960.
4, 5, 6, 7, 8. LờI bài tiểu dẫn «Long Thành cầm giả ca» sách đã dẫn tr. 232-233.






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).