"Krishnamurti" cuộc đời và tư tưởng

16:29 29/08/2008
LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.

Bộ sách gồm 3 phần, dày trên 1.500 trang. Phần I: "Krishnamurti tinh yếu" bao gồm những điểm cốt yếu cơ bản nhất trong nội dung thuyết giảng của Krishnamurti, được chọn lọc từ những cuốn nổi tiếng như "Tự do đầu tiên và cuối cùng" (The first and last freedom), "Đường vào hiện sinh" (Commentaries on living), "Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống" (Education and the Significance of life), "Giáp mặt cuộc đời" (Life Ahead), "Giải thoát tri kiến" (Freedom from the known), "Krishnamurti với chính mình" (Krishnamurti to himself) các phần nhật ký của ông được tập hợp lại dưới tựa đề "Hãy suy nghĩ về những điều này" (Thinking of these things) cùng nhiều bài phát biểu của ông tại thủ đô Whashington... Phần II: "Đời không tâm điểm" và phần III: "Dòng sông thanh tẩy" là hai phần có thể gộp lại trong một cuốn lớn giới thiệu về cuộc đời của Krishnamurti từ khi còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành, trở thành "bậc đạo sư của thế giới" và "triết gia vĩ đại nhất của thời đại" (Đức Đạt Lai Lạt Ma). Phần này do bà Pupul Jayakar – một nhà văn rất giỏi về ngôn ngữ cũng như đã từng tri kiến, gắn bó với đời sống, những chuyển đổi tinh thần của Krishnamurti trong suốt 40 năm viết. Và để làm phong phú thêm bộ sách, giúp bạn đọc hiểu thêm về một sự kiện khiến dư luận xôn xao từ suốt những năm đầu thập niên của thế kỷ XX cho đến ngày nay, đó là Hiện tượng Krishnamurti, đoạn cuối của phần III còn đăng tải một loạt những cuộc trò chuyện của các nhân vật cùng thời như A. Govinda, D.Bohm, B. Griffiths, E. Schallert, Wapola Rahula, Renée Weber, Samdhong Rinpoche, Lý Tiểu Long... và một số cuộc phỏng vấn những người thân cận khi đồng tình, khi phản bác với Krishnamurti.

Để viết về cuộc đời của một tâm hồn vĩ đại, một kinh nghiệm vĩ đại, (Đức Đạt Lai Lạt Ma), bà Pupul - khuôn mặt sáng chói trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật và tôn giáo của Ấn đã đặt bản tường trình đầy tâm sự hành giả của mình vào bối cảnh Ấn Độ và các vấn đề xã hội, con người quen thuộc với hoàn cảnh Việt Nam, viết nên tiểu sử của Krishnamurti theo một loạt các chủ đề mà ông quan tâm nhất: tôn giáo, khoa học, triết học, nghệ thuật, võ thuật, giáo dục, quán tướng... Nếu như trong cuộc đời của nhiều người, Krishnamurti đã ảnh hưởng sâu đậm lên họ, giúp họ tự mình xuyên phá những giới hạn cấm cản đối với giải thoát tự do mình áp đặt cho mình, thì trong cuộc đời của bản thân, dấu ấn đầu tiên sâu đậm với ông có lẽ là hình ảnh Đấng Krishna - người chăn bò, người con thứ tám theo truyền thuyết Ấn Độ đã gắn liền tên tuổi thiêng liêng và sự tưởng nhớ trong ông. Sinh ra tại phòng nguyện ngày 12.5.1895 trong một gia đình dòng dõi Bà-la-môn thuộc đẳng cấp thấp Velanadu xuất xứ từ Giddu, hay Jiddu – một ngôi làng nằm giữa những cánh đồng lúa, Krishnamurti đã bắt đầu cuộc hành trình chân lý của mình từ những ngày lang thang kiếm sống ven bờ biển Andhra. Cậu bé có đôi mắt mở to thông minh và khuôn mặt thanh tú, khi đến trường bị xem là "ngớ ngẩn" đã được Hội Thông thiên học (Theosophy) - một tổ chức tôn giáo lớn được thành lập từ thế kỷ XIX ở Ấn Độ với mục đích đại kết tôn giáo nhận về nuôi nấng. Kỳ vọng vào Krishnamurti, xem ông như là đấng giáo chủ tương lai, người mẹ đỡ đầu, một nhà tư tưởng tự do Annie Besant cùng cỗ máy khổng lồ của tổ chức này đã vận hành từ giáo dục cho đến cơ sở vật chất để chuẩn bị lễ tấn phong, "giáng lâm" của bậc đạo sư. Năm 1925, đau xót trước cái chết của người em trai Nitya thân thiết đã luôn chia sẻ với ông sự cô độc, những triết lý, đức tin tuyệt đối vào tương lai, các cuộc gặp gỡ và thị kiến với các tôn sư đã tan ra từng mảnh. Mãnh liệt của sự ưu sầu đã đưa tới nhận thức bao la, giúp ông nhận ra các vị thần đều là hư dối, là phóng hiện của tư tưởng con người. "Chân lý là một miền đất không có lối vào. Không ai đưa dắt bạn vào được. Chính con người phải tự vươn tới chân lý, chứ không phải chân lý hạ xuống cho hợp với khuôn khổ con người" - với tuyên bố đó, Krishnamurti giã từ vòng hào quang đang sắp sửa quàng lên mình, tuyên bố giải tán Dòng tu Ngôi sao Phương Đông. Ông bắt đầu cuộc hành trình lang thang của mình khắp thế giới, trò chuyện cùng mọi người về cuộc sống - con đường giải thoát ngay chính trên thế gian này. Luôn luôn hướng về sự giải thoát, Krishnamurti cho rằng cái ta nhìn thấy, "bản ngã" của ta, sự hiện diện trong tư tưởng xưng danh là "tôi" nếu được nhìn nhận, không chạy trốn khổ đau, xung đột hay đập tan nó, sẽ là khởi đầu của giải thoát. Bởi theo ông, thời gian không chỉ là thời gian vật lý, nó còn nằm trong tư tưởng con người, phân chia hư dối giữa tư tưởng và người tư tưởng, gây ra cái nhìn nhị phân về vạn pháp thành các cặp đối kháng, gây ra xung đột, khổ đau của cuộc đời. Diến tiến đấy như một dòng sông, nó có sự bắt đầu, sự chấm dứt, nhưng quá trình thanh tẩy lại là bất khởi, bất chung, vô thời gian. "Tự nhìn thấy mình", đó chính là vận hành của đời sống, một đời sống được giải thoát trong hân khởi của sáng tạo. Quan tâm đến con người, Krishnamurti cũng quan tâm đến giáo dục, "Ngọn lửa tình yêu" mà ông đề ra cho một nền giáo dục toàn diện đã được soi chiếu trong "Cõi không người tan; trước hết, tại Trường Thung lũng Rishi. Tuy nhiên, vẫn không có một hệ thống và phương pháp nào được đưa ra để giải quyết hỗn loạn thực tế này. Có quá nhiều luận thuyết làm con người mất đi khả năng bén nhạy hướng đến với miền đất của mình, và như những bông hoa tự nhiên cứ hé nở, những lời rao giảng của Krishnamurti vẫn vang lên, dù không để làm gì, dù có rất nhiều người nghe nhưng không mấy ai hiểu và thực hiện được những lời ông nói.

Năm 1986, Krishnamurti ra đi. Ông vĩnh biệt thế gian nhưng những huấn từ của ông, "huấn từ của Đức Phật" (A. Huxley) với một thẩm quyền nội tại vẫn lấp lánh quyền lực yêu thương và minh triết thức tỉnh những con người đang tiến đến với thời đại của mình. Quyền lực yêu thương con người ấy, không liên kết một tôn giáo phương Đông, phương Tây nào, đã bắt đầu từ một thị trấn âm u và lan tỏa cho toàn thế giới.
L.M.Y

(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

 

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

  • HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).

  • ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

  • HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

  • LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.

  • HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

  • VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

  • TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.

  • NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.

  • VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.

  • NGUYỄN VĂN HOA           Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...

  • KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.

  • HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.