"Khối vuông Ru-Bích" một hướng tìm tòi mới của thơ Thanh Thảo

14:46 29/11/2011
BỬU NAM Tên nhà thơ không còn xa lạ gì với bạn đọc Sông Hương. Có thể nói hình như Tạp chí Sông Hương là mảnh đất thích hợp gieo trồng những tìm tòi nghệ thuật mới của anh.

Nhà thơ Thanh Thảo - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Trích đoạn bài thơ xuôi «Khối vuông Ru Bích», và Trường ca «Đêm trên cát» lần đầu được giới thiệu ở đây - Tên anh cũng không xa lạ với người yêu thơ cả nước. Anh được xem như một trong những tên tuổi nổi bật trong nền thơ ca ta sau 1975 với trường ca «Những người đi tới biển» (QĐND, 1977) và «Dấu chân qua trảng cỏ» (TPM, 1978).

Tập thơ «Khối vuông Ru Bích» lần này tập hợp một số thơ anh viết từ mấy năm gần đây gồm có 9 bài thơ, cộng với một trích đoạn khá hoàn chỉnh gồm 53 đoạn của bài thơ xuôi dài «Khối vuông Ru Bích» và một trường ca «Đêm trên cát» (viết về một đêm của nhà thơ Cao Bá Quát).

Trong 9 bài thơ lẻ, tác giả dành 5 bài thơ để nói những cảm nghĩ về thơ ca nghệ thuật và cuộc đời, đó là các bài: «Có một lần nghe giao hưởng số 7», «Đọc những nhà thơ da đen», «Nếu Mai-kôpxki sống đến tuổi chín mươi», «Đàn ghi ta của Lorca», «Ở năm tám mươi lăm của một con tàu» (viết về nhà thơ Aragông) và nếu kể cả... trường ca Đêm trên cát (về Cao Bá Quát) vị chi là… khá nhiều. Điều đó nói lên một sự quan tâm chú ý của tác giả về chính nghề thơ: Nhiệm vụ, sứ mạng của thơ ca và qua những đề tài này hình như đó là cảm hứng thích hợp để Thanh Thảo diễn tả cái quan niệm về cuộc đời mình. Trong đó có những đoạn thật hay, bắt ta phải nhớ mãi:

«Tôi đọc màu da - than của niềm hy vọng
đáy của mọi chiều sâu
chất liệu âm thầm của lửa
như cây non ngày cả gió
tôi run lên trước làn roi ngôn ngữ
tiếng thét bị ghìm giữa nụ cười chua cay

(Đọc những nhà thơ da đen)

Bốn bài còn lại, hai bài viết về đề tài chiến tranh. «Một người lính nói về thế hệ của mình». «Thị xã Lạng Sơn». Bài trước đáng kể hơn, nó như một thứ tuyên ngôn của người trẻ về chiến tranh và là một loại thơ viết cuộc chiến rất thực đến trần trụi mà đầy cả trách nhiệm:

«…
Một thế hệ thức nhiều hơn ngủ
xoay trần đào công sự
xoay trần trong ý nghĩ
đi con đường người trước đã đi
bằng rất nhiều lối mới

Thế hệ chúng tôi trắng từng đêm lội nước
Sình bết từ chân bết đến đầu
nên giọng nói có nhiều khi ngang dọc
nên cái nhìn có lắm phen gai góc
vì ngọn lửa chịu sình là lửa thực
đã bùng lên dám cháy tận sức mình…

và hình ảnh bạn bè hiện lên thật khó quên! Thằng bạn tôi đăm đăm nhìn một ngôi sao mọc trong hố bom nhòe nước, đôi mắt nó lạ lùng mà tôi thấy được chứa đầy một hố bom và một ngôi sao
(Một người lính nói về thế hệ mình).

Trường ca «Đêm trên cát» mang nhiều tâm huyết của tác giả. Viết một đêm của nhà thơ tài hoa đầy khí phách mà mệnh bạc Cao Bá Quát, tác giả đã nêu lên được chân dung tinh thần, nhân cách và bài học làm nhà thơ và làm người. Ngôn ngữ và câu thơ rất mới mà đượm cái phong vị của thơ cổ:

«hoa gạo trong sương sớm
nung nấu lòng kẻ xa
ta đứng phía mặt trời lên chậm
nửa đường đời cơn gió thoảng qua

Và như thể lá bàng khô
cắn răng chịu rét mà chờ lộc non»


Cấu trúc của trường ca gồm từng đoạn ngắn vài ba câu đến năm bảy câu, vẽ nên cái thần, cô được trong cái khoảnh khắc những trạng thái tâm hồn và chặng đời của Cao Bá Quát:

«…
Khoảnh khắc ta hụt hẫng
mây dưới chân tan loãng rã rời
hố thẳm
bao năm ròng chới với
lòng mê man vin một chút danh hờ»

và ba câu dưới đây lọt được cái «chí» của Cao Chu Thần:

«ta thích hoa phượng cháy tận cùng ngọn lửa
dù phải thiêu đốt cả mùa hạ»

đến hai câu cuối như một ẩn dụ, đầy triết lý sống:

«Khi quả cây chín được trên cành
nó không lo bao giờ rụng xuống»

Đây là một trường ca loại «thế sự» hay của Thanh Thảo, nhiều đoạn thật tuyệt vời, và nó cũng chứng tỏ thêm tài năng thơ của anh.

Bài thơ xuôi dài «Khối vuông Ru-Bích» đã gây xôn xao trong làng thơ quen thuộc. Nhiều tiếng nói rất thủ cựu : Thơ gì mà cầu kỳ, rắc rối, mà chẳng biết cái khối vuông ru… gì đó có phải là thơ không trước đã? Nhiều tiếng nói khác lại lên tiếng tán thưởng, hoan hô nhiệt liệt: Đó là thơ thứ thật, nói thật, nghĩ thật, viết thật táo bạo, mới mẻ, chừng đó trang chữ mà đưa đến sức gợi, sức nghĩ thật sâu xa, hàm súc mà đầy triết lý. Đặc biệt là giới khoa học rất thích bài thơ kiểu này, chẳng biết có phải tư duy thơ của Thanh Thảo ở bài này phù hợp với con người công nghiệp của cuối thế kỷ XX không nhưng phải nói thật đó là một tìm tòi mới và có thể gọi là cách tân, vì nó đem lại nhiều thông tin nghệ thuật mới về cuộc đời mà hình thức cũ không thể chuyên chở nổi.

Thanh Thảo đã tìm được một từ hay để diễn đạt ý tưởng, hồi ức, quan niệm của mình, đó là trò chơi ru bích: Xoay những ô vuông với những màu sắc khác nhau, vàng, xanh, đen... từ những vòng xoay đó là toàn bộ những cái gì sâu thẳm nhất của anh được biểu lộ. Mỗi vòng xoay là một ý tưởng, một hồi ức, một cảnh đời, một đối thoại đầy ý nghĩa, một suy ngẫm triết lý về thơ và đời:

... «Có lẽ, anh chỉ nên sống bằng thời gian của chính mình , con người anh là đồng hồ sinh học của anh. Như thế anh có thể làm việc trong những hoàn cảnh hết sức khác nhau mà không sợ bị khớp hay bị lạc lõng. Nghĩa là anh vừa có cái chăm chú của người thợ tiện đứng máy, vừa có cặp mắt nhìn thẳng của người lái xe buýt trong thành phố, vừa có sự chậm rãi của người làm vườn tỉa cây nhổ cỏ, vừa có cái vẻ ngạc nhiên và lơ đãng của trẻ con trên đường. Bằng thứ đồng hồ ấy anh đo được những tốc độ và những khoảng ngưng lặng sâu thẳm nhất»...
(đoạn 56 trang 29)

Phải nói đọc kỹ bài thơ xuôi này, ta thấy những đoạn thú vị, những ý nghĩ sắc sảo, những tư tưởng độc đáo khá nhiều… Và gì thì gì, nó đem lại cho người đọc một cái gì đó đáng suy ngẫm, nghĩ ngợi và đó là sự thành công trong một ý nghĩ nào đó và bài thơ đó là một sự tìm tòi rất là Thanh Thảo. Nên chấp nhận điều đó một cách thông minh nghĩa là đừng xem đó là cái khuôn của thơ ca, mà như là một sự tìm tòi để nói một nội dung thích hợp với Thanh Thảo. Thế thôi !

3-86
B.N.
(18/4-86)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.