"Gấm" trong Bàn tay nhỏ dưới mưa

14:44 23/09/2014

(Vài cảm nhận khi đọc “BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA” tiểu thuyết của nhà văn TRƯƠNG VĂN DÂN
(cty vh Phuong Nam-Nxb Hội Nhà văn, 2011)

Đọc cuốn tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa” của nhà văn Trương Văn Dân,  tôi chợt nhớ lại những ngày còn đi học, hồi đó hai câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã làm tôi khắc khoải bởi ý niệm của con người ý thức số phận của mình là do thiên mệnh:

'Bắt phong trần phải phong trần'

'Cho thanh cao mới được phần thanh cao” (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Tôi đồng cảm với nhà văn Trương văn Dân về sự giải bày, chia sẻ tình yêu thương, những trăn trở về sự sống và số phận con người trong xã hội công nghiệp hóa và toàn cầu hóa. Tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa” gần như không có cốt truyện, chỉ kể về tình yêu giữa người phụ nữ tên Gấm và người đàn ông nhà báo với miên man dòng cảm xúc, những suy tư, trăn trở về mối hiểm họa trong xã hội hiện đại mà con người phải gánh chịu. Qua bút pháp độc thoại nội tâm có pha lẫn thể loại ký báo chí, ông khám phá hiện thực cuộc sống và nỗi bất hạnh, nỗi lo sợ của con người  trong xã hội hiện đại “Nó là hệ quả của một nhịp sống hối hả phi nhân của thời đại, nguyên nhân chính là sự gian tham và tàn ác của con người[i], lập luận và đưa ra những lý do vì sao con người cần phải sống theo tự nhiên, ông đã gởi vào đó một khát vọng  sống và yêu mãnh liệt của con người qua nhân vật Gấm và người đàn ông của cô.

Từ những giằng xé trong tâm hồn của một nhà văn đầy lòng trắc ẩn, ông đã xây dựng một nhân vật điển hình cho lòng khát khao sống và khát khao yêu trong xã hội hiện đại. Họ đã yêu nhau thiết tha và mãnh liệt giữa cõi đời này: “Cám ơn em, vì nhờ có em mà anh hiểu được một tình yêu vừa thánh thiện vừa mê say trên cõi đời này là có thật. Tình yêu đó vừa nhẹ nhàng, vừa mãnh liệt, vì chúng mình đã yêu nhau trong ý thức, trong vô thức và cả trong tiềm thức....”. Nhưng tình yêu của họ phải trải qua nhiều nỗi đau trong một xã hội xấu xa đầy dối trá và số phận Gấm là hệ quả của sự tham lam, ích kỷ, tàn bạo và sống thiếu trách nhiệm của con người.

Gấm đã cô đơn với cuộc sống từ tuổi thơ cho đến bám víu vào hai cuộc hôn nhân, và bi kịch hơn là cô đơn ngay với chính mình từ cuộc hôn nhân lần thứ hai: “...Đêm đêm nằm bên tôi, chắc anh ta chưa bao giờ nghe tiếng trái tim tôi quặn thắt”. Đã qua hai cuộc hôn nhân mà Gấm vẫn chưa tìm cho mình một tình yêu đích thực. Với lối viết tả ít nhưng gợi nhiều, ông đã gợi cho người đọc những nỗi niềm trăn trở với “nỗi đau thân phận con người và khuynh hướng tàn ác hiện nay của thế giới”. Ông đã viết, lý giải những điều trông thấy và những dự cảm của mình xung quanh cuộc sống, tập hợp những sự kiện, miêu tả từng chi tiết những phát minh của con người với nền khoa học văn minh, tiến bộ. Nhưng mặt trái những tiến bộ khoa học là sự khủng hoảng, là nỗi lo sợ, của con người trong xã hội toàn cầu hóa, được ông viết với những dòng cảm xúc khắc khoải đầy khát vọng: “...Trên thực tế có nhiều đường sá nhưng chỉ để bảo đảm nhu cầu mặt tiền và bán đất chứ không vì giao thông. Thành phố phình to mà không gian bị bế tắc về cảnh quan, môi trường  và sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ.

Trong không gian chật hẹp, tập tính của con người bị dồn nén đang bị biến tính, sống kiểu tranh cướp nhau. Con người không còn băn khoăn về việc buôn gian bán lận, lừa lọc người khác và có khi còn xem đó là nghệ thuật sống. Cuộc tranh sống khốc liệt biến con người thành ích kỷ và hung bạo”.

Dưới ngòi bút của một nhà văn đầy lòng nhân ái, ông nêu ra “Những vấn nạn của xã hội trước xu thế toàn cầu hóa” và ông  đã chỉ ra một cách nhẹ nhàng mà đầy tính thuyết phục về sự vô nghĩa và phi lý của xã hội công nghiệp hóa và toàn cầu hóa. Ông nêu những thành tựu khoa học ngày càng văn minh, tiến bộ, cuộc sống vật chất ngày càng cao....đồng thời cũng chỉ rõ những nhu cầu ích kỷ, tham vọng  của con người “con người thì tham lam mà trái đất thì cạn kiệt”, để thấy rõ môi trường sống đã trở thành mối hiểm họa tự hủy diệt mình: “Các người đang khai thác hành tinh này như thể là không hề có ngày mai. Các người đã bán rừng. Bán đất. Hết bán trên mặt thì các người đào xới dưới sâu để bán. Các người đang bán những gì có thể. Bán tất tần tật. Kẻ bán thể xác, kẻ bán linh hồn, bán mãi đến khi không còn gì để bán và thế giới này đang bị hủy hoại cả vật chất lẫn tinh thần”

Mà suy cho cùng, tham vọng con người cũng không thể tách rời cái ác. Ngày nay, thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh... ngày càng tăng, đạo đức ngày càng suy thoái cũng chỉ vì tham lam, ích kỷ, xâu xé lẫn nhau để tranh giành địa vị trong xã hội.... và ông đã đau xót cho nỗi bất hạnh này: “Tôi chợt nghĩ là Gấm đã sống đủ và đau khổ cũng đủ. Biết đâu trái tim mẫn cảm của nàng không chịu nổi sự trần tục ở đời, không thích ứng với những mưu ma chước quỷ của thời đại, nơi con người “hiện đại” đang tranh sống và xâu xé nhau như dã thú”. Cùng đau với nỗi đau của con người, nhưng không buông xuôi mà ông đã có một thái độ sống đúng đắn, biết cảm thông và bao dung, ông khuyên con người “đừng tự xiềng xích mình vào nỗi bất hạnh” “hãy vui mà sống” “Hạnh phúc thật ra chỉ có trong những điều nhỏ nhặt”. Ông quan niệm về hạnh phúc con người trong cuộc sống cần phải có nhiều thứ, ví như người giàu, có quá nhiều tiền bạc, của cải mà thiếu văn hóa sống thì sẽ  trở thành người bất hạnh: “Nghèo thì khổ, điều đó dễ thấy, nhưng giàu mà thiếu văn hóa sống thì cuộc đời cũng chẳng khác gì đâu. Cái khác là nghèo, từ thiện có thể cho, còn bất hạnh thì không ai giúp được”. Tôi nghĩ ông là người chịu nhiều ảnh hưởng bởi triết lý Phật giáo, nên khi  viết về lòng yêu thương, ông đã viết với tấm lòng bao dung và độ lượng: “Người ta nói rất nhiều về tình yêu, nhưng lại thương yêu nhau quá ít...”, “Mỗi người chúng ta đều có thể mang nhân quả, liên kết với nhau từ bao kiếp trước, hãy lấy tình thương mà bước qua những khổ đau và oán hận....”. Hay như ông tự hóa giải, trên tinh thần “vô ngã” hay “dĩ tĩnh chế động” mỗi khi tỏ ra không tôn trọng một ai:“...không cần to tiếng hay cãi cọ, nụ cười có thể làm cho người ta thấy đau hơn nhiều. Nó làm cho người ta cảm thấy mình không tồn tại hay tồn tại mà không có trọng lượng gì trong mắt ”.

Đọc “Bàn tay nhỏ dưới mưa”, ta nhận ra ở ông là  một sự cảm thông chia sẻ, một nỗi ngậm ngùi, một niềm khắc khoải bởi lẽ ông luôn nghĩ đến niềm vui và hạnh phúc của con người, chiến tranh đã đi qua, con người lại tiếp tục đối phó với những đau khổ và bất hạnh bởi lòng tham sân si… Dù bị đe dọa bởi hiểm họa môi trường sống, nhưng vì cuộc sinh tồn con người buộc phải lao vào mà không thấy những hệ lụy đằng sau đó. Tưởng rằng đã thoát ra khỏi nỗi sợ hãi của chiến tranh, đẫm máu vì bom đạn thì nay con người  lại phải đối mặt với những hệ lụy từ  những cạnh tranh, giành giật, tận thu tài nguyên, phá hủy môi trường... Nó đã trở thành mối hiểm họa và đã làm cho kẻ thì bệnh tật, sống lây lất, người thì dùng mọi cách lừa lọc để tìm đến đỉnh vinh quang, thể hiện cái tôi, cái ta trong xã hội. Tác giả đã vạch rõ bản chất của những mỹ từ, những “ngôn ngữ hồ đồ, đánh tráo khái niệm” nhằm “che đậy những tư tưởng xấu xa” trong xã hội.

Viết về thân phận con người trong xã hội hiện nay, ông đã viết về nỗi đau cùng với nỗi khát khao của con người trong tình yêu:” Nỗi tủi nhục và bẽ bàng cứ bám riết tôi. Qua hai đời chồng mà tôi chưa hề tham gia tích cực trong quan hệ đượm vị ái ân. Tôi chưa bao giờ trở thành kẻ đồng lõa trong trò chơi mê cuồng, hoan lạc. Thân thể tôi sau nhiều năm ngủ yên, bản năng tắt lịm như con thú ngủ đông tưởng sẽ chẳng bao giờ thức dậy. Đó là vết thương đau đớn và bí mật mà tôi tưởng mình sẽ phải gánh chịu cho đến cuối cuộc đời”. Khi biết cái chết gặm nhắm dần sự sống, ông đã khắc họa tâm trạng dằn vặt, đau đớn của Gấm với hình thức độc thoại nội tâm thật vô cùng sâu sắc: “Mỗi thời khắc trôi qua là con Gấm sống và tự giết chết một phần của chính mình. Những tế bào này chết, những tế bào khác sinh ra. Con Gấm thay đổi, tự bác bỏ, tự mâu thuẫn, tự hoài nghi giữa đúng và sai, giữa chân lý và sai lầm… và đó chính là sự trưởng thành, là sự hoà nhập vào hiện thực cuộc sống thiên hình vạn trạng”.

Những ngôn từ đầy mỹ ý để che giấu hành động độc ác, những thành tựu khoa học văn minh từ sự đồi bại có chủ tâm ... chẳng mang lại cho con người một cuộc sống an toàn, hay một tình yêu đích thực. Con người luôn phải đón nhận bi kịch này đến bi kịch khác trong kiếp nhân sinh. Bi kịch lớn nhất lúc này của Gấm là nỗi sợ hãi và cô đơn, nhưng khi đứng ở giữa lằn ranh của sự sống và cái chết, đối diện với chính mình, tư tưởng Gấm không chịu buông thả số phận mình theo định mệnh mà cô đã ý thức được về sự tồn tại của mình và hình như mọi động, tĩnh  của cuộc đời đã làm cho cô nhận thức được cái Tôi trong cô: “Chỉ có sự nhận thức rằng mọi chuyển biến đều không tránh khỏi là còn ở lại. Và tôi thả rơi cái Tôi của mình trong cảm giác tự xóa mà không đau đớn, sẵn sàng hòa nhập và chìm trong mênh mông. Từ trên cao nhìn xuống, tôi thấy khói sương. Tất cả núi sông, thành quách, nhà cửa....dưới trần gian bổng thu nhỏ lại, dần dần biến mất.

Tất cả chỉ còn là khoảng không. Vô tận và mờ ảo.

 Bản ngã, vô ngã sắp hòa vào đại ngã”.

Đây cũng là thế giới nội tâm của ông khi nhìn lại chính mình, là giá trị nhân văn sâu sắc về lẽ tử - sinh mà ông muốn gởi gắm vào đó. “Vậy có phải đã ngộ ra được lẽ tử sinh? Đã lý giải được cái giới hạn  vươn lên cõi vô cùng? Đã thấy được vô biên trong hình người hữu hạn?” .

Nhân vật Gấm đã diễn xong vai diễn của mình ở sân khấu cuộc đời với những bi, hài kịch đầy đủ hỷ, nộ,  ái, ố, lạc, dục. Những thứ ánh sáng điện đèn nhiều màu sắc rực rỡ, chớp nháy như ánh hào quang rồi cũng tắt, Gấm rời vai diễn, rời khỏi sân khấu để lùi vào bóng tối của cuộc đời, có thể sau đó sẽ có một ít người nhớ đến Gấm với những vai diễn hoàn hảo, mang lại cho họ những khoảnh khắc buồn, vui trong chốc lát : “Áng mây trên bầu trời kia sẽ không còn nữa. Như tôi chưa từng hiện hữu. Tôi sẽ trả lại nước mắt khổ đau cho đời. Tôi sẽ vứt bỏ hết mọi lạc thú, mọi thói quen và vĩnh viễn rời bỏ cuộc sống. Có lẽ chỉ còn lại những điều mà tôi suy nghĩ, từng cảm xúc và để lại nỗi nhớ trong lòng một ít người còn nhớ đến tôi”.

Nhưng rồi Gấm đã nhận thức được những giai đoạn mà đời người phải trải qua : sinh, lão, bệnh, tử, cho nên cô cũng không còn hoảng loạn, lo lắng về căn bệnh quái ác và cái chết cận kề, Gấm bỗng trở nên lạc quan và yêu thiết tha cuộc sống này, yêu nữa người mình tìm thấy như yêu một tâm hồn đồng điệu. Khát vọng yêu của Gấm, của một cuộc đời đang bước những bước tận cùng của số phận đã được ông viết ở đỉnh cao của cảm xúc: “cả hai  tận hưởng dư vị trái cấm trong cảm giác say sưa. Rả rời và buông thả. Hình hài quằn quại như đớn đau nhưng hoan lạc vươn lên đỉnh điểm”.

Còn viết về tình yêu, tình dục, ông đã viết bằng một cảm xúc mãnh liệt từ sự rung cảm của trái tim, làm cho văn chương ông toát lên một vẻ đẹp quyến rũ và hướng  đến giá trị chân thiện mỹ: “...Chúng tôi thường thủ thỉ những lời yêu thương, đến khi ngôn ngữ không còn khả năng chuyển tải và diễn đạt thì chúng tôi lại nói với nhau bằng thứ ngôn từ đơn giản nhất. Ngôn ngữ của thân xác. Ôi, từ trước đến nay tôi chỉ cảm nhận tình yêu bằng một sự chung đụng, có khi đau xót hay day dứt đến bẽ bàng, thì đây là lần đầu tiên tôi chứng nghiệm được sự tuyệt vời của tình yêu. Bằng tất cả yêu thương và sự thèm khát trong người đàn bà bấy lâu nay kìm nén, gìn giữ, bằng tất cả sự sung mãn và phát triển đang độ phì nhiêu nhất... tôi cùng anh hòa nhịp trong vũ điệu ái tình. Đắm đuối dìu nhau lên đỉnh điểm khoái cảm tột cùng. Hai thân thể quấn quýt nhau trong thứ ánh sáng của ngày mới, mang đầy màu sắc vừa hoang dã, vừa linh thiêng của thưở hồng hoang”.

Bỗng nhiên tôi liên tưởng đến cái tên “Gấm” mà ông đặt cho người phụ nữ trong tác phẩm này. Gấm là một trong những loại vải quý hiếm, áo gấm ngày xưa được coi là biểu tượng của sự giàu sang, phú quý, sự thành đạt trong con đường học hành và công danh. Trong Hán sử có câu “Phú quý bất quy cố hương như cẩm y dạ hành” (có nghĩa là giàu sang mà không trở về quê thì cũng như mặc áo gấm đi đêm). “Gấm” trong “Bàn tay nhỏ dưới mưa”, có lẽ đó là sự chắt lọc tất cả những cái tốt đẹp và thuần khiết nhất của con người từ thuở hồng hoang, nhưng thân phận Gấm cũng là thân phận con người “ Tôi là kết tinh của sự bất hạnh hay là người phụ nữ được yêu....”, cuộc đời Gấm cuối cùng rồi cũng bị xô đẩy vào con đường bế tắc của số phận.

Bằng những cung bậc cảm xúc khác nhau và với một lối viết rất riêng, ông đã cho người đọc nhận ra hệ quả tất yếu từ những tham vọng của con người và ông đã  viết đến tận cùng của cảm xúc về lòng khát khao sống và khát khao yêu của con người: “Vì chết chỉ là mở đầu của sự tái sinh nên chúng tôi ước muốn sẽ cùng nhau quay lại cõi trần gian. Bởi với tình yêu ngút ngàn Gấm đã dành cho, thì giữa Bồng Lai của chư thần và cuộc sống trần tục với tôi, chắc nàng sẽ chẳng đắn đo chọn bước thứ hai”.

Có lẽ là người xa quê hương rất nhiều năm, ông lại là một nhà văn rất gần gũi với cuộc sống đời thường, với tấm lòng bao dung, ông đã  hóa thân vào nhân vật Gấm để gửi gắm những suy tư, trăn trở về thế sự, về cuộc đời, về số phận và nỗi bất an của con người. Ông viết và lý giải những điều mắt thấy tai nghe, phản ảnh đời sống xã hội và thể hiện nhân sinh quan trong những ngày tháng trở về quê hương sau 40 năm sinh sống ở đất Ý và đặc biệt là ông đã sống hết mình cho tình yêu.

Nhưng Gấm là ai? là ai mà đã làm ông phải khắc khoải, suy tư.... với rất nhiều cảm xúc đan xen trong suốt hơn 400 trang sách. Phải chăng đó là cảm xúc của ông, của một tấm lòng nhân hậu, của một con người sống có trách nhiệm với đời, với người, khi nghĩ về thân phận và cuộc đời của con người vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh lại phải sống chung với những vấn nạn xã hội về xu thế toàn cầu hóa; về bản năng sinh tồn và sự hủy diệt con người; về những mầm hy vọng chưa kịp lóe lên rồi chợt tắt trong niềm tuyệt vọng; về  cuộc đời giữa mơ và thực, giữa tử và sinh, giữa hạnh phúc và khổ đau, giữa tình yêu và nước mắt, giữa xảo trá, quỷ quyệt và lòng trung thực.... Nỗi đau của Gấm trong tác phẩm này cũng chính là nỗi đau của nhà văn Trương văn Dân và cũng là nỗi đau chung của nhân loại, vì vậy ông đã chiến đấu với nó như nhà văn Ấn Độ Suzanna Arundhati Roy, một cây bút tích cực tranh đấu cho human right đã viết: “Trong bối cảnh toàn cầu hoá về kinh tế và đồng nhất hoá về văn hoá như hiện nay, nhà văn phải dấn mình vào cuộc đấu tranh chống lại những biến động chính trị, kinh tế, xã hội không phải với tư cách một chiến binh chuyên nghiệp, mà là với tư cách một con người biết động lòng trắc ẩn vì chân, thiện, mỹ. Chiến đấu bằng ngòi bút là cách tốt nhất mà một nhà văn có thể làm” ( Trích trong bài      “Nhà văn trước mặt trái của toàn cầu hóa” của  Arundhati Roy, bản dịch của Ngô Vũ)[ii]

Cho dù “Bàn tay nhỏ dưới mưa” không che nổi phận đời, phận người, nhưng có thể vẫy gọi khắp mọi nơi bằng tình yêu thương, bằng tấm lòng từ, bi, hỷ xả, để mọi người cùng nhau chia sẻ yêu thương, để con người rủ bỏ bớt lòng tham lam, ích kỷ, để chúng ta có được một cuộc sống thân thiện, an yên, biết đón nhận lấy những bất trắc trong cuộc đời và nhất là biết tha thứ để mang lại hạnh phúc cho nhau:

“Hãy yêu nhau đi quên ngày u tối
Dù vẫn biết mai này xa lìa thế giới
Mặt đất đã cho ta những ngày vui với
Hãy nhìn vào mặt người lần cuối trong đời” (Nhạc Trịnh Công Sơn)

Qui nhơn, ngày 03 tháng 9 năm 2014
Nguồn: Trần Kim Đức - vanchuongviet

          


[i] Những đoạn in nghiêng được trích từ tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa”

[ii] http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=7953 và Văn nghệ số 34 (tháng 8-2012)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.