Ý nhỏ trong việc lớn

16:27 04/09/2008
THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

Tôi chăm chú nghe ông nói, chỉ nghe mà không dám đàm đạo gì. Thực lòng tôi cũng không biết có phải miền Trung là mảnh đất của văn xuôi hay không? Mà cũng không thể nói ở đâu có điều kiện cho văn xuôi và ở đâu thì không có điều kiện đó. Tôi giữ thái độ lễ phép trước bậc đàn anh khi nghe những lời tâm sự cực đoan của ông.
Một dải đất từ Bỉm Sơn đến Hàm Tân, xe chạy phải tính hàng ngày. Địa hình thay đổi qua hàng trăm cây số: từ Thanh Hoá, vùng đất đã sinh ra hai triều vua đến làng tôi ở Quỳnh Lưu Nghệ An, nơi là bối cảnh mà nhà văn Bùi Hiển viết truyện ngắn đặc sắc "Nằm vạ" cách nhau chưa đầy một trăm cây số mà đã có biết bao nhiêu điều khác biệt, mỗi điều khác biệt đó là một chi tiết lạ làm nên xương thịt của các truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết.
Trong những năm chiến tranh tôi có điều kiện đi đến nhiều nơi, từ vùng đất vĩ tuyến 17, đường 9 ác liệt đến chiến trường Huế trong Tết Mậu Thân và chiến trường khu năm từ năm 1969 đến năm 1975, tuy lúc đấy chưa có ý thức tích luỹ chi tiết để làm tăng vốn sống cho mình để trợ giúp viết văn sau này, nhưng những chi tiết đời sống, những cảnh sắc thiên nhiên cứ dần dà nhập vào mình, tích tụ lại và cũng tự nhiên chúng sẽ hiện ra trên các trang giấy mỗi khi chủ đề xuất hiện.
Hiện nay người ta đang bàn cãi rất nhiều về những điều mà đời sống đang đặt ra, đang vận động một cách chóng mặt với các phương tiện mà khoa học đem lại ngày một tinh vi hơn thì văn xuôi phải thay đổi như thế nào để bắt kịp và phản ánh được cuộc vận động đó. Thời gian đang dồn ép lại. Nhưng các thế hệ có sự xích xa nhau hơn quy trình sự phân biệt giàu nghèo, mà kinh tế thị trường đang mang đến. Nhiều điều của những người 20 tuổi, người 40 tuổi thậm chí 50 tuổi cũng không thể hiểu hết. Tiếng nói chung của các tầng lớp trong xã hội không còn giữ được sự đồng nhất trên nhiều phương diện. Con người ngày càng ít quan tâm đến những giá trị nhân văn vì giá trị đó không phục vụ cho nhu cầu cấp thiết trước mắt họ. Vì vậy, họ sẽ hành động rất bộc phát và nhiều khi không có tính toán gì nhiều. Trước một bối cảnh như vậy văn xuôi phải làm gì?
Phải nói một cách thẳng thắn rằng trong những chục năm gần đây văn xuôi trong địa bàn miền Trung chúng ta và trên cả nước, chưa có những tác phẩm làm xao động đời sống xã hội, nói được những điều mà đời sống xã hội đang quan tâm, đang đặt câu hỏi, đang cần lời giải đáp. Điều đó không có nghĩa là các nhà văn không làm việc, và cũng không phải là không có những tác phẩm đặc sắc. Nhưng với một quỹ thời gian có hạn sau những việc kiếm sống để tồn tại, con người lại có nhiều phương tiện để tiếp thu kiến thức, để giải trí tiện lợi khác thì các tác phẩm văn xuôi phải tung được những đòn mạnh hơn nữa vào đời sống xã hội. Đó là các tác phẩm hay để người đọc không thể xa lánh nó được.
Theo tôi công việc của người viết văn hiện nay cũng chẳng có gì khác mấy so với những người đi trước, có khác chăng thì có người vẫn viết tay và có người làm việc trên máy vi tính. Lại vẫn là phải đề cao những giá trị tinh thần vốn có của con người mà họ chưa bộc lộ hết, hoặc bị vùi lấp dưới những thói hư tật xấu do điều kiện xã hội tạo ra. Các nhà điêu khắc chỉ cần đục bỏ những phần thừa của tảng đá để có tác phẩm tuyệt hảo. Còn những người viết văn xuôi chúng ta dù viết về tiêu cực hay tích cực, viết về điển hình anh hùng hay các vụ án, viết về người lớn hay trẻ con, viết về thiên nhiên được bảo vệ hay đang bị phá hoại, viết về bất cứ đề tài nào thì cũng đạt được mục đích cuối cùng là tôn vinh con người, tôn vinh Con Người viết hoa luôn luôn tiến hoá, bút pháp có lạnh lùng đến đâu sự thật về cái xấu cái ác có được bộc lộ sâu sắc đến đâu thì cái đích đến của văn xuôi cũng như các nghệ thuật khác là làm bộc lộ phần trong trắng, phần sáng suốt nhất, phần nguyên vẹn nhất của con người. Còn tất cả những thứ như thể loại đề tài, chủ đề chỉ là phương tiện. Tất nhiên nhà văn phải dũng cảm. Trong những năm 50 của thế kỷ trước có cuộc đối thoại giữa nhà văn Mỹ Wiliam Faulkner và nhà văn Pháp Allbet Camus, hai nhà văn được giải thưởng Nôben vẫn còn giá trị thời sự bây giờ (đại ý).
A.Camus: Ông nghĩ gì về văn chương hiện nay?
W.Faulkner: Sẽ chẳng có gì cả, muốn có nền văn chương chân chính nhà văn phải thâm nhập vào sự đau khổ, phải có lòng trắc ẩn, có sự thông cảm và một tình thương lớn lao với con người. Các nhà văn lớp trước thành công vì họ đã làm như vậy.
A.Camus: Cái gì cản trở con người làm nên những kiệt tác?
W.Faullkner: Sự sợ hãi, khi con người hết sợ hãi, khi ấy họ sẽ khởi sự viết những kiệt tác.
Quay về hiện thực về mảnh đất và con người miền Trung mà nhiều tác phẩm văn học xuất sắc từ đầu thế kỷ đến nay đã khắc họa một diện mạo văn xuôi với những nét độc đáo riêng. Tuy không được bác học, thanh nhã với ngôn ngữ đẹp như văn xuôi phương Bắc, không được phóng khoáng tươi vui như văn xuôi phương Nam, văn xuôi miền Trung được cái mộc mạc, mạnh mẽ, chắt lọc. Đó là những viên ngọc quý của lớp lớp nhà văn để lại cho hậu thế. Việc tiếp tục sự nghiệp ấy là của thế hệ nhà văn hôm nay. Tôi xin kể chuyện về một con người, mà bản chất cuộc sống của ông rất văn xuôi. Ông là một Thượng tướng, Anh hùng quân đội, trong suốt chặng đường chiến đấu của ông, người ta hình dung ra ông là một người kiên cường, dũng cảm, quyết đoán, có nhiều cách đánh sáng tạo để chiến thắng quân thù. Ông thường nói nếu nhân dân giao lực lượng vũ trang cho tôi dù một tiểu đội hay đến cả quân đoàn tôi đều tìm mọi cách để chiến thắng kẻ thù với thời gian ngắn, hiệu suất cao, tiết kiệm xương máu. Tất cả những điều trên đều đúng về con người ông. Một hôm khi đang làm việc với ông về kinh nghiệm của một trận đánh, trong bản tổng kết có ghi: Thương vong không đáng kể. Ông đưa bản thảo cho tôi và hỏi: "Này ông nhà văn, ông nghĩ gì về mấy chữ này? "Tôi chưa kịp trả lời thì ông nói: "Không thể nói không đáng kể được. Thương vong nào dù nhỏ nhất cũng rất đáng kể phải không ông". Sau đó tôi cầm bút chữa lại thành: thương vong thấp.
Những con người như vậy và vô vàn con người khác quanh ta với đầy đủ bản chất nhân văn của họ đang chờ chúng ta thể hiện lên trang viết. Nhưng anh chị em cầm bút chúng ta đã biết phải có một cơ duyên nào đó, có thể là cảm hứng, phần lớn là do lao động, thì những suy nghĩ, cảm nhận của ta mới truyền đạt một cách thuyết phục đến người đọc qua những con chữ để cùng chúng ta suy ngẫm về những con người sống trên mảnh đất được ví như cái đòn gánh gánh hai đầu đất nước và nếu như tất cả anh chị em chúng ta ngồi đây cùng với những bạn viết đang có mặt ở khắp nơi của đời sống xã hội chân tình giúp đỡ nhau, trân trọng sự lao động của nhau, nói như Maxim Gorki hãy bỏ đi sự chỉ huy nhau và giành lấy quyền dạy bảo nhau tôi tin rằng chúng ta không sợ thiếu những tác phẩm văn xuôi đặc sắc về miền Trung.
T.B.L
(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau:

  • PHAN NGỌC

    Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.

  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó. 

  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.

  • LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).