Ý nghĩa của văn học trong thời đại tiêu dùng

10:32 16/09/2008
TƯỞNG THUẬT TRÁC Có phải hiện nay văn học đang đối mặt với thời đại tiêu dùng hay không? Nhiều người còn hoài nghi vấn đề này. Thậm chí có người còn phủ định sự có mặt của thời đại tiêu dùng trong khi miền Đông và miền Tây Trung Quốc đang có sự không cân bằng và tất cả đều đang xây dựng một xã hội khá giả.

Học giả người Pháp Jean Baudriard đã nêu lên giai đoạn thứ tư của sự biến đổi lịch sử đó là giai đoạn xã hội tiêu dùng (Mác đã nêu 3 giai đoạn là: giai đoạn tiền hàng hoá, giai đoạn hàng hoá và giai đoạn hàng hoá hoá). Trong xã hội tiêu dùng, không phải chỉ có hàng hoá được sản xuất cực nhiều mà còn tạo ra đủ loại nhu cầu cho con người. Hành vi tiêu dùng của con người không chỉ là hành vi kinh tế mà đã chuyển hướng thành hành vi lối sống và hành vi văn hoá. Nhìn chung xu thế phát triển của kinh tế thế giới, toàn cầu bước vào xã hội tiêu dùng, điều này đã được đại đa số chuyên gia công nhận.

Nền kinh tế Trung Quốc đang ở trong thời kỳ chuyển nhanh sang kinh tế thị trường đồng thời cố gắng hoàn thiện nhanh nhất thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mặc dù hiện nay đang có sự phát triển không cân bằng giữa miền Đông và miền Tây đất nước, giữa thành thị và nông thôn, miền núi, song về tổng thể, Trung Quốc đã bước vào giai đoạn giữa của xã hội tiêu dùng. Trong khi nhân dân được ổn định mức tăng trưởng thu nhập, nhu cầu cơ bản của cuộc sống là “ăn” đã thoả mãn, thì những chi phí về vui chơi, du lịch, nghỉ ngơi, cũng đã tăng thêm...
Trong thời đại tiêu dùng ngày nay, văn học đang đứng trước hai vấn đề lớn: Một là văn học thời đại tiêu dùng rốt cuộc là cái gì? Hai là ý nghĩa của văn học thời đại tiêu dùng là thế nào? Về vấn đề thứ nhất, mấy năm trước đây đã có nhiều thảo luận, tuy chưa đi tới một định luận song đã thấy được đường hướng mới. Còn vấn đề thứ hai, tức ý nghĩa của văn học thì nhiều nhà phê bình, nhà lý luận tỏ ra lo ngại: một là văn học nghệ thuật bị trở thành hàng hoá sẽ mất đi ý nghĩa văn học nghệ thuật, nhất là ý nghĩa giáo dục. Hai là trong quá trình kích thích tiêu dùng, các lĩnh vực khác sẽ vay mượn hoặc lợi dụng văn học nghệ thuật để thẩm mỹ hoá cuộc sống đời thường, sẽ làm cho “chất thơ” của văn học nghệ thuật loãng ra, làm mất đi sự hấp dẫn của văn học nghệ thuật. Ba là văn học nghệ thuật bị hàng hoá hoá sẽ mất đi tính sáng tạo và cả tính sáng tác, dẫn đến chỗ mất đi ý nghĩa của văn học.

Từ góc độ văn hoá kinh tế mà xét thì quá trình lưu thông hàng hoá văn học nghệ thuật không chỉ có lưu thông tiền của mà cũng có sản sinh và lưu thông ý nghĩa, sự thích thú và tư cách xã hội, cho nên độc giả (hoặc người cảm thụ) cũng có tiếp nhận được những thứ đó. Họ sẽ chọn lựa loại văn học nghệ thuật nào đó là quan niệm về giá trị văn hoá của họ. Ý nghĩa và sự thú vị của văn học nghệ thuật trong quá trình lưu thông có khi nhiều khi ít, khi mạnh khi yếu, song không phải do lưu thông mà chủ yếu do bản thân nó. Từ góc độ truyền bá mà xét thì văn học nghệ thuật là thứ hàng hoá trao đổi càng nhiều thì ảnh hưởng ý nghĩa càng lớn, hiệu ích xã hội của nó càng nhiều, giá trị xã hội của nó cũng tăng lên. Nếu có được nhiều cơ hội trao đổi, lưu thông thì văn học nghệ thuật ở tư cách hàng hoá càng phải suy nghĩ nghiêm túc về giá trị nghệ thuật và ý nghĩa xã hội của mình, vì hàng hoá nghệ thuật mà dở chỉ khiến khẩu vị của người tiêu dùng chán ngán và sẽ nhanh chóng bị đẩy ra khỏi thị trường. Ở khía cạnh kinh doanh, nghệ thuật thành hàng hoá cũng phải dựng cho mình một ý thức về thương hiệu, phải làm sao càng tinh xảo đẹp đẽ, thu hút được nhiều người tiêu dùng. Giống như phim điện ảnh và các sáng tác khác của Trương Nghệ Mưu, đạo diễn nổi tiếng thế giới này đã tạo được một không khí duy mỹ bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, đã tìm mọi cách để giành được thị trường và người tiêu dùng. Ông muốn đi con đường thị trường, nhưng thực tế, sau khi làm thành công hai phim “Cao lương đỏ” và “Thu Cúc đi kiện”, ông tiếp tục đi tìm con đường thị trường hoá điện ảnh, đã làm cho một số đề tài bình thường trở thành nổi rộ (như “Một người không thể thiếu”, “Cha mẹ tôi”), nhưng sau người ta phê bình phim “Anh hùng” và “Thập diện mai phục” của ông, họ cho rằng thật sự không thành công, đó là do chỉ chú ý dựng “thương hiệu” mà không nắm chắc mối quan hệ giữa ý nghĩa tốt của văn học và thị trường, dẫn đến ảnh hưởng cho hiệu quả thị trường. Chắc ông đã có suy nghĩ và tổng kết những bài học kinh nghiệm, nên phim “Ấn tượng chị Ba Lưu” đã có tiến bộ.

Văn học nghệ thuật sau khi trở thành hàng hoá và được lưu thông có bị giảm chức năng giáo dục không? Hoặc có thoái đạo đức không? Vấn đề này không tuyệt đối. Phải công nhận rằng nó sẽ chú trọng đến thị trường nhiều hơn song nó không có mối liên hệ tất nhiên với sự suy thoái đạo đức, cũng như sự phát triển kinh tế thị trường không có mối quan hệ tất nhiên với sự mất đạo đức. Từ thế kỷ 18, rõ ràng có “khủng hoảng đạo đức” sau khi có sự xâm nhập của tư bản vào sản xuất văn hoá, như nhà bình luận văn hoá người Anh đã nói: “Thế kỷ 18, sự phát triển của tiểu thuyết đã bị công kích rộng rãi, rằng về đạo đức, tiểu thuyết có hại cho những phụ nữ yếu đuối và loại người hầu hạ, mà họ lại là những người tiêu dùng loại này nhiều nhất. Từ nhà thơ đến giới bình luận đều đả kích tiểu thuyết. Hiện tượng này lặp lại đối với điện ảnh những năm 30 của thế kỷ 20 và đối với ti vi của những năm 50. Sự khủng hoảng này tập trung vào trẻ em và thanh thiếu niên non trẻ. Người ta sợ rằng chúng sẽ bị ảnh hưởng bạo lực. Ở Trung Quốc, chính kịch và tiểu thuyết thời Minh Thanh nổi lên cũng bị phê phán đạo đức, bị cho là “hối dâm hối đạo”, có quan địa phương còn cấm diễn “dâm kịch”. Ngay cả gần đây, người ta còn sợ phim “Hoàn Châu cách cách”, hình tượng Hoàn Châu có thể ảnh hưởng đến đạo đức của thanh thiếu niên. Ngày nay, loại tiểu thuyết và điện ảnh “ma giới” xuất hiện, lại có người lo thanh thiếu niên sẽ rơi vào ảo tưởng, không phân biệt được lịch sử và hiện thực, rồi làm những chuyện bậy bạ. Song họ không nghĩ đến những tác động tích cực. Thí dụ truyện “Harry Potter” cũng có nhiều điều chính nghĩa, có giáo dục luân lý thiện ác. Ca nhạc cũng vậy, có những bài hát rất tốt.

Trong xã hội tiêu dùng ngày nay, văn học nghệ thuật thường bị các hiện tượng văn hoá khác như quảng cáo truyền hình, biểu diễn thời trang, giới thiệu thương phẩm, các hội hè... vay mượn để dùng cho đại chúng. Sự vay mượn này tạo thành nhiều hiện tượng Á văn học nghệ thuật, mở rộng biên giới của văn học, hình thành sự thẩm mỹ hoá cuộc sống đời thường. Vậy nên ứng phó thế nào?
Trước hết, cần thấy rõ sự vay mượn đó không phải là chuyện có hại. Trong lịch sử, văn học nghệ thuật luôn bị tôn giáo vay mượn, như âm nhạc nhà thờ, hội hoạ nhà thờ... Tôn giáo thấy rõ sức hấp dẫn của văn học nghệ thuật. Ngày nay, quảng cáo mượn văn học nghệ thuật làm tăng sức hấp dẫn quảng cáo, lại có thể có loại văn học quảng cáo - một thể tài mới. Ca vũ quy mô lớn cũng có thể thành một hình thức độc lập. Văn học thông tin, văn học mạng. Theo quan điểm của Mác: sau khi điều kiện sản xuất vật chất bao gồm kỹ thuật có sự biến đổi thì hình thái ý thức bao gồm những cái thuộc thượng tầng kiến trúc (văn học nghệ thuật,...) sẽ có sự biến đổi hoặc nhanh hoặc chậm. Thời đại nào có văn học nghệ thuật của thời đại đó, trong thời đại thông tin, thời đại tiêu dùng ngày nay, văn học nghệ thuật được mở rộng, có thay đổi, là điều dễ hiểu và dần dần có thể chấp nhận.

Thứ nữa, văn học nghệ thuật bị vay mượn dẫn đến thẩm mỹ hoá đời thường, điều đó cũng không xấu mà lại hay. Trong tiến trình xây dựng xã hội khá giả, nhu cầu sinh hoạt của nhân dân chỉ có thể ngày càng mạnh, vấn đề ăn, mặc, đi, ở càng ngày càng theo xu hướng thẩm mỹ hoá. Tặng quà có kèm thêm mấy câu thơ Đường. Đồ gia dụng đẹp... kích thích tiêu dùng có lợi cho tiêu thụ, lẽ nào tính nghệ thuật ở đó chỉ gây phản cảm? Cuộc sống đời thường được thẩm mỹ hoá hiện tượng Á văn học nghệ thuật lẽ nào không đem lại sự hưởng thụ đẹp đẽ cho đại chúng? Ý thơ có tản rộng ra một chút có gì là không ổn?
Cũng cần phải có sự lý giải mới về vấn đề ý thơ trong xã hội tiêu dùng như thế nào?

Hãy nói về hội họa Trung Quốc. Xưa miêu tả cảnh rừng sâu núi cao, ngư tiều, chùa miếu, xem đó là ý thơ. Đến khi Cao Kiến Phú sáng lập ra “Sầm họa phái”, rồi Tề Thạch Thạch - vị quốc họa đại sư, chuyên miêu tả người bình dân và những đồ vật thường dùng của bình dân, đó không thể nói là không có ý thơ. Từ Bi Hồng vẽ ngựa cố nhiên là phù hợp với ý thơ truyền thống. Song những tranh tả thực tả sử như “Điền hoành ngũ bách tráng sĩ” cũng có ý thơ. Nhiều hoạ sĩ đưa những hiện tượng đời thường vào hội hoạ, cũng có ý thơ. Giới tranh dầu hiện nay cũng có khuynh hướng vẽ về cuộc sống thường ngày. Nghĩ cho kỹ, những tác phẩm hoạ ưu tú phương Tây, xưa kia phần lớn là miêu tả cuộc sống thường ngày như tắm gội, trang điểm, tiệc tùng... rất thời thượng mà cũng giàu ý thơ. Các họa sĩ thời nay vẽ về cuộc sống đời thường nếu suy nghĩ sâu sắc cũng có thể có ý thơ như vậy. Thời đại khoa học kỹ thuật, dùng máy móc phục chế tác phẩm cũng hay, khiến nghệ thuật trở thành thứ của đại chúng, khiến chức năng, giá trị của nghệ thuật và sự tiếp nhận đều có thay đổi căn bản. Vậy thì ý thơ cũng có thể thay đổi chứ. Có thể quan niệm rộng hơn về ý thơ. Như Haiđơgơ (Heideger) nói: con người nên sinh sống có ý thơ trên trái đất này. Ý thơ ở đây không chỉ có nghĩa là con người cần có thú vui tinh thần mà còn có những mối quan hệ hài hoà giữa con người với thiên nhiên, với con người, với xã hội. Văn nghệ đương đại có đầy đủ những tư tưởng sâu sắc và phong phú thức tỉnh con người đang mê mẩn trong vòng vật chất, khiến con người có lại được hi vọng và niềm tin đối với cuộc sống hợp lý trong hiện thực, đó chẳng phải là “ý thơ” trong xã hội ngày nay sao?

Còn vấn đề văn học nghệ thuật trở thành hàng hoá có làm mất đi tính sáng tạo và cá tính nghệ thuật của văn học nghệ thuật không? Đây cũng là vấn đề đang tranh cãi. Hiện nay, trong tình hình sản xuất văn nghệ hoặc sản xuất văn hoá, cố nhiên là có vấn đề mất đi tính sáng tạo và cá tính nghệ thuật vì đã là hàng hoá lưu thông tất nhiên sẽ có một số người sản xuất loại hàng hoá đó. Song khẩu vị của người mua cũng có thay đổi, đến một lúc nào đó họ sẽ không hài lòng với loại hàng thông dụng mà đòi hỏi hàng “tinh phẩm” hơn. Thực ra trong xã hội tiêu dùng cạnh tranh kịch liệt, văn học nghệ thuật trong thị trường cạnh tranh cũng phải cố gắng, nếu không có cá tính mạnh và sức sáng tạo thì người tiêu dùng cũng không mua. Người sản xuất nghệ thuật giỏi phải nghĩ tới nhu cầu thị trường song vẫn phải kiên trì lý tưởng nghệ thuật và cá tính nghệ thuật. Balzac đã từng viết cho thị trường, song trong rất nhiều sáng tác ông vẫn lưu lại một số “tinh phẩm” giàu tính sáng tạo. Sáng tác của Sếch-spia cũng từng đón chào khẩu vị của đại chúng, song tác phẩm ưu tú của ông vẫn nhiều nhất trong các tác gia kịch. Trong xã hội tiêu dùng, ngay sản xuất sản phẩm vật chất cũng phải có phẩm bài có cá tính mới thu hút được người mua như đồng hồ, máy giặt... Người thiết kế cũng phải tìm cách cá tính hoá và sao cho độc đáo. Gần đây, có hiện tượng khách hàng thông qua mạng để tham dự vào quá trình sản xuất, từ đề xuất mẫu sản phẩm cá tính hoá, rồi nhà sản xuất tiếp thu. Ở Thuỵ Sĩ một số nhà máy sản xuất đồng hồ để khách hàng tham dự việc thiết kế.

Tác phẩm văn học nghệ thuật là sản phẩm tinh thần lại càng cần đại chúng bình luận. Chính kịch, điện ảnh, ti vi, nếu thiếu tính sáng tạo và cá tính sẽ bị người xem bỏ qua một cách vô tình. Do đó, trong thời đại kinh tế thị trường và tiêu dùng, nghệ thuật trở thành hàng hoá càng yêu cầu cao đối với sáng tạo nghệ thuật, mấu chốt là ở chỗ nhà nghệ thuật và nhà lý luận có thể đáp ứng được thách thức đó và cho ra những tác phẩm có tính sáng tạo được hay không.
Ở trên tôi đã biện hộ cho vấn đề ý nghĩa của văn học trong thời đại tiêu dùng, mục đích là để tìm hiểu một cách tích cực và chính diện giá trị tồn tại của văn học và tương lai phát triển của văn học. Tôi cảm thấy giới lý luận, phê bình hiện đang quá bi quan đối với vấn đề trên. Một số người cho rằng văn học hiện nay do bị kinh tế thị trường và quan niệm giá trị đa nguyên tấn công nên ý nghĩa của nó đang nghèo nàn hoá, bình diện hoá, dung tục hoá, thậm chí có người giữ lập trường “phái tả mới”, cho rằng văn học đã hoàn toàn mất đi tính phê phán và rơi vào vòng nô lệ của đồng tiền và nhục dục. Tôi cho rằng cách nhìn này đã thiếu biện chứng. Tôi không phủ nhận hiện nay văn học có những tệ hại song những tệ hại này chỉ có thể giải quyết bằng sự phát triển. Phát triển chính là cách để văn học tồn tại và phát triển. Từ những năm 90 của thế kỷ 20 đến nay, văn học đã phát triển rất mạnh. Thí dụ đầu những năm 90, các nhà văn và nhà phê bình bắt đầu coi trọng tự sự, thực hiện sự chuyển biến quan trọng từ “viết cái gì?” đến “viết thế nào?”. Thể loại cũng phát triển chỉ riêng tản văn đã có nhiều đột phá. Tiểu thuyết có nhiều tác phẩm giá trị không kém những năm 80. Rồi mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh khiến phim truyền hình rất phát triển. Phim truyền hình lại có tác dụng mở rộng ảnh hưởng của văn học, thu hút được rất nhiều người thưởng thức... Điều này đã làm phong phú thêm nhu cầu giải trí văn hoá, giải trí về tinh thần của đại chúng nhân dân. Có thể khẳng định rằng văn học hiện nay không hề suy thoái và tụt dốc, lại càng không phải sắp đến hồi “chung kết”. Nếu hiện nay văn học đang vô nghĩa, vô giá trị, đang làm nô lệ cho đồng tiền vậy thì nó còn có tương lai gì nữa? Phát triển nó còn có ý nghĩa gì nữa? Xã hội tiêu dùng quả đã là khắc tinh của văn học hay sao? Thời đại kỹ thuật quả khiến văn học biến mất trên trái đất này sao? Tôi nghĩ vị tất đã vậy. Thử xem thời Tống - Nguyên - Minh, văn học cũng đã từng đối diện thị trường, từng trải qua thời kỳ tiêu dùng và nhục dục quá đáng, nhưng thoại bản thời Tống - Nguyên chẳng để lại nhiều giai tác đó sao? “Tam ngôn nhị phách” chẳng phải là tác phẩm văn học kinh điển sao? “Kim Bình Mai” được tranh cãi nhiều đã chẳng xôn xao thế kỷ 21 đó sao? Những cái đó xưa cũng đã từng được thị trường và đại chúng hoan nghênh. Chúng cũng đã trở thành một bộ phận và một khâu “có ý nghĩa” trong văn học Trung Quốc. Văn học ngày nay trước sự thách thức của kinh tế thị trường và xã hội tiêu dùng, cũng đang tìm tòi và suy nghĩ để định vị, để có ý nghĩa mới, giá trị mới, có những chuyển biến và cơ cấu mới. Tôi thấy tràn đầy hi vọng đối với tương lai của văn học thời đại tiêu dùng.

Văn học là nhân học, là hoạt động tinh thần quan tâm đến con người, nghiên cứu con người, nghiên cứu xã hội, giữa con người với con người. Xưa nay, văn học bao giờ cũng tràn đầy tình yêu đối với con người và xã hội, có ca ngợi, có phê phán, đều là vì tương lai tươi đẹp hơn của loài người và xã hội. Từ thế kỷ 20, văn học hiện đại chủ nghĩa ra đời cho đến nay, dường như văn học phần nhiều biểu hiện những cái tuyệt vọng của con người, của xã hội, song đúng như A-tô-nốp đã nói, người ta đang làm như kiểu Káp-ka, thấy được hy vọng trong nỗi tuyệt vọng và sẽ được giải cứu. Từ sự phê phán mà được giải cứu, từ trong tuyệt vọng mà thấy hy vọng đó chính là chất nhân văn của văn học. Nói theo ngôn ngữ của Phật thì đó là đại từ bi. Việc nghiên cứu văn học và văn hoá sở dĩ có sự tương thông là vì về bản chất, chúng đều mang tinh thần phê phán, đều rất quan tâm cứu vãn xã hội loài người. Tinh thần nhân văn đó sẽ không lỗi thời trong thế kỷ 21, và sau này cũng sẽ không thể lỗi thời, trừ phi văn học không phải do con người sáng tác ra nữa. Tinh thần nhân văn ở mỗi thời đại có hình thức biểu hiện khác nhau. Ở thế kỷ 21, văn học và việc nghiên cứu văn học chỉ cần kiên trì sự phê phán, cứu vãn đồng thời thực hiện sự vượt lên hiện thực thì phương hướng lớn sẽ không thể sai. Có lẽ đó là nguyên nhân khiến văn học vẫn cứ được mọi người yêu mến mà không bị rơi vào chung kết, không bị vứt bỏ.
PHẠM THỊ HẢO dịch

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H