Ý nghĩa của văn học trong thời đại tiêu dùng

10:32 16/09/2008
TƯỞNG THUẬT TRÁC Có phải hiện nay văn học đang đối mặt với thời đại tiêu dùng hay không? Nhiều người còn hoài nghi vấn đề này. Thậm chí có người còn phủ định sự có mặt của thời đại tiêu dùng trong khi miền Đông và miền Tây Trung Quốc đang có sự không cân bằng và tất cả đều đang xây dựng một xã hội khá giả.

Học giả người Pháp Jean Baudriard đã nêu lên giai đoạn thứ tư của sự biến đổi lịch sử đó là giai đoạn xã hội tiêu dùng (Mác đã nêu 3 giai đoạn là: giai đoạn tiền hàng hoá, giai đoạn hàng hoá và giai đoạn hàng hoá hoá). Trong xã hội tiêu dùng, không phải chỉ có hàng hoá được sản xuất cực nhiều mà còn tạo ra đủ loại nhu cầu cho con người. Hành vi tiêu dùng của con người không chỉ là hành vi kinh tế mà đã chuyển hướng thành hành vi lối sống và hành vi văn hoá. Nhìn chung xu thế phát triển của kinh tế thế giới, toàn cầu bước vào xã hội tiêu dùng, điều này đã được đại đa số chuyên gia công nhận.

Nền kinh tế Trung Quốc đang ở trong thời kỳ chuyển nhanh sang kinh tế thị trường đồng thời cố gắng hoàn thiện nhanh nhất thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mặc dù hiện nay đang có sự phát triển không cân bằng giữa miền Đông và miền Tây đất nước, giữa thành thị và nông thôn, miền núi, song về tổng thể, Trung Quốc đã bước vào giai đoạn giữa của xã hội tiêu dùng. Trong khi nhân dân được ổn định mức tăng trưởng thu nhập, nhu cầu cơ bản của cuộc sống là “ăn” đã thoả mãn, thì những chi phí về vui chơi, du lịch, nghỉ ngơi, cũng đã tăng thêm...
Trong thời đại tiêu dùng ngày nay, văn học đang đứng trước hai vấn đề lớn: Một là văn học thời đại tiêu dùng rốt cuộc là cái gì? Hai là ý nghĩa của văn học thời đại tiêu dùng là thế nào? Về vấn đề thứ nhất, mấy năm trước đây đã có nhiều thảo luận, tuy chưa đi tới một định luận song đã thấy được đường hướng mới. Còn vấn đề thứ hai, tức ý nghĩa của văn học thì nhiều nhà phê bình, nhà lý luận tỏ ra lo ngại: một là văn học nghệ thuật bị trở thành hàng hoá sẽ mất đi ý nghĩa văn học nghệ thuật, nhất là ý nghĩa giáo dục. Hai là trong quá trình kích thích tiêu dùng, các lĩnh vực khác sẽ vay mượn hoặc lợi dụng văn học nghệ thuật để thẩm mỹ hoá cuộc sống đời thường, sẽ làm cho “chất thơ” của văn học nghệ thuật loãng ra, làm mất đi sự hấp dẫn của văn học nghệ thuật. Ba là văn học nghệ thuật bị hàng hoá hoá sẽ mất đi tính sáng tạo và cả tính sáng tác, dẫn đến chỗ mất đi ý nghĩa của văn học.

Từ góc độ văn hoá kinh tế mà xét thì quá trình lưu thông hàng hoá văn học nghệ thuật không chỉ có lưu thông tiền của mà cũng có sản sinh và lưu thông ý nghĩa, sự thích thú và tư cách xã hội, cho nên độc giả (hoặc người cảm thụ) cũng có tiếp nhận được những thứ đó. Họ sẽ chọn lựa loại văn học nghệ thuật nào đó là quan niệm về giá trị văn hoá của họ. Ý nghĩa và sự thú vị của văn học nghệ thuật trong quá trình lưu thông có khi nhiều khi ít, khi mạnh khi yếu, song không phải do lưu thông mà chủ yếu do bản thân nó. Từ góc độ truyền bá mà xét thì văn học nghệ thuật là thứ hàng hoá trao đổi càng nhiều thì ảnh hưởng ý nghĩa càng lớn, hiệu ích xã hội của nó càng nhiều, giá trị xã hội của nó cũng tăng lên. Nếu có được nhiều cơ hội trao đổi, lưu thông thì văn học nghệ thuật ở tư cách hàng hoá càng phải suy nghĩ nghiêm túc về giá trị nghệ thuật và ý nghĩa xã hội của mình, vì hàng hoá nghệ thuật mà dở chỉ khiến khẩu vị của người tiêu dùng chán ngán và sẽ nhanh chóng bị đẩy ra khỏi thị trường. Ở khía cạnh kinh doanh, nghệ thuật thành hàng hoá cũng phải dựng cho mình một ý thức về thương hiệu, phải làm sao càng tinh xảo đẹp đẽ, thu hút được nhiều người tiêu dùng. Giống như phim điện ảnh và các sáng tác khác của Trương Nghệ Mưu, đạo diễn nổi tiếng thế giới này đã tạo được một không khí duy mỹ bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, đã tìm mọi cách để giành được thị trường và người tiêu dùng. Ông muốn đi con đường thị trường, nhưng thực tế, sau khi làm thành công hai phim “Cao lương đỏ” và “Thu Cúc đi kiện”, ông tiếp tục đi tìm con đường thị trường hoá điện ảnh, đã làm cho một số đề tài bình thường trở thành nổi rộ (như “Một người không thể thiếu”, “Cha mẹ tôi”), nhưng sau người ta phê bình phim “Anh hùng” và “Thập diện mai phục” của ông, họ cho rằng thật sự không thành công, đó là do chỉ chú ý dựng “thương hiệu” mà không nắm chắc mối quan hệ giữa ý nghĩa tốt của văn học và thị trường, dẫn đến ảnh hưởng cho hiệu quả thị trường. Chắc ông đã có suy nghĩ và tổng kết những bài học kinh nghiệm, nên phim “Ấn tượng chị Ba Lưu” đã có tiến bộ.

Văn học nghệ thuật sau khi trở thành hàng hoá và được lưu thông có bị giảm chức năng giáo dục không? Hoặc có thoái đạo đức không? Vấn đề này không tuyệt đối. Phải công nhận rằng nó sẽ chú trọng đến thị trường nhiều hơn song nó không có mối liên hệ tất nhiên với sự suy thoái đạo đức, cũng như sự phát triển kinh tế thị trường không có mối quan hệ tất nhiên với sự mất đạo đức. Từ thế kỷ 18, rõ ràng có “khủng hoảng đạo đức” sau khi có sự xâm nhập của tư bản vào sản xuất văn hoá, như nhà bình luận văn hoá người Anh đã nói: “Thế kỷ 18, sự phát triển của tiểu thuyết đã bị công kích rộng rãi, rằng về đạo đức, tiểu thuyết có hại cho những phụ nữ yếu đuối và loại người hầu hạ, mà họ lại là những người tiêu dùng loại này nhiều nhất. Từ nhà thơ đến giới bình luận đều đả kích tiểu thuyết. Hiện tượng này lặp lại đối với điện ảnh những năm 30 của thế kỷ 20 và đối với ti vi của những năm 50. Sự khủng hoảng này tập trung vào trẻ em và thanh thiếu niên non trẻ. Người ta sợ rằng chúng sẽ bị ảnh hưởng bạo lực. Ở Trung Quốc, chính kịch và tiểu thuyết thời Minh Thanh nổi lên cũng bị phê phán đạo đức, bị cho là “hối dâm hối đạo”, có quan địa phương còn cấm diễn “dâm kịch”. Ngay cả gần đây, người ta còn sợ phim “Hoàn Châu cách cách”, hình tượng Hoàn Châu có thể ảnh hưởng đến đạo đức của thanh thiếu niên. Ngày nay, loại tiểu thuyết và điện ảnh “ma giới” xuất hiện, lại có người lo thanh thiếu niên sẽ rơi vào ảo tưởng, không phân biệt được lịch sử và hiện thực, rồi làm những chuyện bậy bạ. Song họ không nghĩ đến những tác động tích cực. Thí dụ truyện “Harry Potter” cũng có nhiều điều chính nghĩa, có giáo dục luân lý thiện ác. Ca nhạc cũng vậy, có những bài hát rất tốt.

Trong xã hội tiêu dùng ngày nay, văn học nghệ thuật thường bị các hiện tượng văn hoá khác như quảng cáo truyền hình, biểu diễn thời trang, giới thiệu thương phẩm, các hội hè... vay mượn để dùng cho đại chúng. Sự vay mượn này tạo thành nhiều hiện tượng Á văn học nghệ thuật, mở rộng biên giới của văn học, hình thành sự thẩm mỹ hoá cuộc sống đời thường. Vậy nên ứng phó thế nào?
Trước hết, cần thấy rõ sự vay mượn đó không phải là chuyện có hại. Trong lịch sử, văn học nghệ thuật luôn bị tôn giáo vay mượn, như âm nhạc nhà thờ, hội hoạ nhà thờ... Tôn giáo thấy rõ sức hấp dẫn của văn học nghệ thuật. Ngày nay, quảng cáo mượn văn học nghệ thuật làm tăng sức hấp dẫn quảng cáo, lại có thể có loại văn học quảng cáo - một thể tài mới. Ca vũ quy mô lớn cũng có thể thành một hình thức độc lập. Văn học thông tin, văn học mạng. Theo quan điểm của Mác: sau khi điều kiện sản xuất vật chất bao gồm kỹ thuật có sự biến đổi thì hình thái ý thức bao gồm những cái thuộc thượng tầng kiến trúc (văn học nghệ thuật,...) sẽ có sự biến đổi hoặc nhanh hoặc chậm. Thời đại nào có văn học nghệ thuật của thời đại đó, trong thời đại thông tin, thời đại tiêu dùng ngày nay, văn học nghệ thuật được mở rộng, có thay đổi, là điều dễ hiểu và dần dần có thể chấp nhận.

Thứ nữa, văn học nghệ thuật bị vay mượn dẫn đến thẩm mỹ hoá đời thường, điều đó cũng không xấu mà lại hay. Trong tiến trình xây dựng xã hội khá giả, nhu cầu sinh hoạt của nhân dân chỉ có thể ngày càng mạnh, vấn đề ăn, mặc, đi, ở càng ngày càng theo xu hướng thẩm mỹ hoá. Tặng quà có kèm thêm mấy câu thơ Đường. Đồ gia dụng đẹp... kích thích tiêu dùng có lợi cho tiêu thụ, lẽ nào tính nghệ thuật ở đó chỉ gây phản cảm? Cuộc sống đời thường được thẩm mỹ hoá hiện tượng Á văn học nghệ thuật lẽ nào không đem lại sự hưởng thụ đẹp đẽ cho đại chúng? Ý thơ có tản rộng ra một chút có gì là không ổn?
Cũng cần phải có sự lý giải mới về vấn đề ý thơ trong xã hội tiêu dùng như thế nào?

Hãy nói về hội họa Trung Quốc. Xưa miêu tả cảnh rừng sâu núi cao, ngư tiều, chùa miếu, xem đó là ý thơ. Đến khi Cao Kiến Phú sáng lập ra “Sầm họa phái”, rồi Tề Thạch Thạch - vị quốc họa đại sư, chuyên miêu tả người bình dân và những đồ vật thường dùng của bình dân, đó không thể nói là không có ý thơ. Từ Bi Hồng vẽ ngựa cố nhiên là phù hợp với ý thơ truyền thống. Song những tranh tả thực tả sử như “Điền hoành ngũ bách tráng sĩ” cũng có ý thơ. Nhiều hoạ sĩ đưa những hiện tượng đời thường vào hội hoạ, cũng có ý thơ. Giới tranh dầu hiện nay cũng có khuynh hướng vẽ về cuộc sống thường ngày. Nghĩ cho kỹ, những tác phẩm hoạ ưu tú phương Tây, xưa kia phần lớn là miêu tả cuộc sống thường ngày như tắm gội, trang điểm, tiệc tùng... rất thời thượng mà cũng giàu ý thơ. Các họa sĩ thời nay vẽ về cuộc sống đời thường nếu suy nghĩ sâu sắc cũng có thể có ý thơ như vậy. Thời đại khoa học kỹ thuật, dùng máy móc phục chế tác phẩm cũng hay, khiến nghệ thuật trở thành thứ của đại chúng, khiến chức năng, giá trị của nghệ thuật và sự tiếp nhận đều có thay đổi căn bản. Vậy thì ý thơ cũng có thể thay đổi chứ. Có thể quan niệm rộng hơn về ý thơ. Như Haiđơgơ (Heideger) nói: con người nên sinh sống có ý thơ trên trái đất này. Ý thơ ở đây không chỉ có nghĩa là con người cần có thú vui tinh thần mà còn có những mối quan hệ hài hoà giữa con người với thiên nhiên, với con người, với xã hội. Văn nghệ đương đại có đầy đủ những tư tưởng sâu sắc và phong phú thức tỉnh con người đang mê mẩn trong vòng vật chất, khiến con người có lại được hi vọng và niềm tin đối với cuộc sống hợp lý trong hiện thực, đó chẳng phải là “ý thơ” trong xã hội ngày nay sao?

Còn vấn đề văn học nghệ thuật trở thành hàng hoá có làm mất đi tính sáng tạo và cá tính nghệ thuật của văn học nghệ thuật không? Đây cũng là vấn đề đang tranh cãi. Hiện nay, trong tình hình sản xuất văn nghệ hoặc sản xuất văn hoá, cố nhiên là có vấn đề mất đi tính sáng tạo và cá tính nghệ thuật vì đã là hàng hoá lưu thông tất nhiên sẽ có một số người sản xuất loại hàng hoá đó. Song khẩu vị của người mua cũng có thay đổi, đến một lúc nào đó họ sẽ không hài lòng với loại hàng thông dụng mà đòi hỏi hàng “tinh phẩm” hơn. Thực ra trong xã hội tiêu dùng cạnh tranh kịch liệt, văn học nghệ thuật trong thị trường cạnh tranh cũng phải cố gắng, nếu không có cá tính mạnh và sức sáng tạo thì người tiêu dùng cũng không mua. Người sản xuất nghệ thuật giỏi phải nghĩ tới nhu cầu thị trường song vẫn phải kiên trì lý tưởng nghệ thuật và cá tính nghệ thuật. Balzac đã từng viết cho thị trường, song trong rất nhiều sáng tác ông vẫn lưu lại một số “tinh phẩm” giàu tính sáng tạo. Sáng tác của Sếch-spia cũng từng đón chào khẩu vị của đại chúng, song tác phẩm ưu tú của ông vẫn nhiều nhất trong các tác gia kịch. Trong xã hội tiêu dùng, ngay sản xuất sản phẩm vật chất cũng phải có phẩm bài có cá tính mới thu hút được người mua như đồng hồ, máy giặt... Người thiết kế cũng phải tìm cách cá tính hoá và sao cho độc đáo. Gần đây, có hiện tượng khách hàng thông qua mạng để tham dự vào quá trình sản xuất, từ đề xuất mẫu sản phẩm cá tính hoá, rồi nhà sản xuất tiếp thu. Ở Thuỵ Sĩ một số nhà máy sản xuất đồng hồ để khách hàng tham dự việc thiết kế.

Tác phẩm văn học nghệ thuật là sản phẩm tinh thần lại càng cần đại chúng bình luận. Chính kịch, điện ảnh, ti vi, nếu thiếu tính sáng tạo và cá tính sẽ bị người xem bỏ qua một cách vô tình. Do đó, trong thời đại kinh tế thị trường và tiêu dùng, nghệ thuật trở thành hàng hoá càng yêu cầu cao đối với sáng tạo nghệ thuật, mấu chốt là ở chỗ nhà nghệ thuật và nhà lý luận có thể đáp ứng được thách thức đó và cho ra những tác phẩm có tính sáng tạo được hay không.
Ở trên tôi đã biện hộ cho vấn đề ý nghĩa của văn học trong thời đại tiêu dùng, mục đích là để tìm hiểu một cách tích cực và chính diện giá trị tồn tại của văn học và tương lai phát triển của văn học. Tôi cảm thấy giới lý luận, phê bình hiện đang quá bi quan đối với vấn đề trên. Một số người cho rằng văn học hiện nay do bị kinh tế thị trường và quan niệm giá trị đa nguyên tấn công nên ý nghĩa của nó đang nghèo nàn hoá, bình diện hoá, dung tục hoá, thậm chí có người giữ lập trường “phái tả mới”, cho rằng văn học đã hoàn toàn mất đi tính phê phán và rơi vào vòng nô lệ của đồng tiền và nhục dục. Tôi cho rằng cách nhìn này đã thiếu biện chứng. Tôi không phủ nhận hiện nay văn học có những tệ hại song những tệ hại này chỉ có thể giải quyết bằng sự phát triển. Phát triển chính là cách để văn học tồn tại và phát triển. Từ những năm 90 của thế kỷ 20 đến nay, văn học đã phát triển rất mạnh. Thí dụ đầu những năm 90, các nhà văn và nhà phê bình bắt đầu coi trọng tự sự, thực hiện sự chuyển biến quan trọng từ “viết cái gì?” đến “viết thế nào?”. Thể loại cũng phát triển chỉ riêng tản văn đã có nhiều đột phá. Tiểu thuyết có nhiều tác phẩm giá trị không kém những năm 80. Rồi mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh khiến phim truyền hình rất phát triển. Phim truyền hình lại có tác dụng mở rộng ảnh hưởng của văn học, thu hút được rất nhiều người thưởng thức... Điều này đã làm phong phú thêm nhu cầu giải trí văn hoá, giải trí về tinh thần của đại chúng nhân dân. Có thể khẳng định rằng văn học hiện nay không hề suy thoái và tụt dốc, lại càng không phải sắp đến hồi “chung kết”. Nếu hiện nay văn học đang vô nghĩa, vô giá trị, đang làm nô lệ cho đồng tiền vậy thì nó còn có tương lai gì nữa? Phát triển nó còn có ý nghĩa gì nữa? Xã hội tiêu dùng quả đã là khắc tinh của văn học hay sao? Thời đại kỹ thuật quả khiến văn học biến mất trên trái đất này sao? Tôi nghĩ vị tất đã vậy. Thử xem thời Tống - Nguyên - Minh, văn học cũng đã từng đối diện thị trường, từng trải qua thời kỳ tiêu dùng và nhục dục quá đáng, nhưng thoại bản thời Tống - Nguyên chẳng để lại nhiều giai tác đó sao? “Tam ngôn nhị phách” chẳng phải là tác phẩm văn học kinh điển sao? “Kim Bình Mai” được tranh cãi nhiều đã chẳng xôn xao thế kỷ 21 đó sao? Những cái đó xưa cũng đã từng được thị trường và đại chúng hoan nghênh. Chúng cũng đã trở thành một bộ phận và một khâu “có ý nghĩa” trong văn học Trung Quốc. Văn học ngày nay trước sự thách thức của kinh tế thị trường và xã hội tiêu dùng, cũng đang tìm tòi và suy nghĩ để định vị, để có ý nghĩa mới, giá trị mới, có những chuyển biến và cơ cấu mới. Tôi thấy tràn đầy hi vọng đối với tương lai của văn học thời đại tiêu dùng.

Văn học là nhân học, là hoạt động tinh thần quan tâm đến con người, nghiên cứu con người, nghiên cứu xã hội, giữa con người với con người. Xưa nay, văn học bao giờ cũng tràn đầy tình yêu đối với con người và xã hội, có ca ngợi, có phê phán, đều là vì tương lai tươi đẹp hơn của loài người và xã hội. Từ thế kỷ 20, văn học hiện đại chủ nghĩa ra đời cho đến nay, dường như văn học phần nhiều biểu hiện những cái tuyệt vọng của con người, của xã hội, song đúng như A-tô-nốp đã nói, người ta đang làm như kiểu Káp-ka, thấy được hy vọng trong nỗi tuyệt vọng và sẽ được giải cứu. Từ sự phê phán mà được giải cứu, từ trong tuyệt vọng mà thấy hy vọng đó chính là chất nhân văn của văn học. Nói theo ngôn ngữ của Phật thì đó là đại từ bi. Việc nghiên cứu văn học và văn hoá sở dĩ có sự tương thông là vì về bản chất, chúng đều mang tinh thần phê phán, đều rất quan tâm cứu vãn xã hội loài người. Tinh thần nhân văn đó sẽ không lỗi thời trong thế kỷ 21, và sau này cũng sẽ không thể lỗi thời, trừ phi văn học không phải do con người sáng tác ra nữa. Tinh thần nhân văn ở mỗi thời đại có hình thức biểu hiện khác nhau. Ở thế kỷ 21, văn học và việc nghiên cứu văn học chỉ cần kiên trì sự phê phán, cứu vãn đồng thời thực hiện sự vượt lên hiện thực thì phương hướng lớn sẽ không thể sai. Có lẽ đó là nguyên nhân khiến văn học vẫn cứ được mọi người yêu mến mà không bị rơi vào chung kết, không bị vứt bỏ.
PHẠM THỊ HẢO dịch

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.