Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới của Haruki Murakami

10:51 28/05/2010
FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

Ảnh: thanglong.com.vn

Trong đời sống, việc điều khiển một cỗ máy phức tạp đã khó khăn, nhưng việc thông hiểu và nắm bắt chính tâm hồn của mình, những cái tôi bên trong mỗi cá thể lại là điều gần như bất khả. Con người luôn là một bí mật với chính nó, và hành trình đi tìm ý nghĩa tâm hồn của mỗi cá nhân, kết nối những cái tôi bên trong bản thân mình là một chuyến hành hương trong tuyệt vọng. Tuy nhiên, cuộc hành hương đó lại mang ý nghĩa và mục đích cao cả của mọi kiếp người, nơi mỗi bản thể chứng minh chân giá trị của mình không phải bằng đích đến, mà chính bằng dấu chân trên những cuộc hành trình. Theo nghĩa đó, tiểu thuyết Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới (Hard - boiled wonderland and the end the world) của Haruki Murakami (sinh 1949) là một câu chuyện ẩn dụ lớn lao, đượm buồn và thú vị về vấn đề muôn thủa của con người: vấn đề truy tìm bản ngã của những tha nhân. Mặc dù mới được xuất bản tại nước ta, nhưng Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới lại là một trong những tiểu thuyết đầu tiên (xuất bản năm 1985) đưa tên tuổi H.Murakami trở thành “là một trong những cây bút đương đại bậc thầy” (Der Tagesspiegel). 

Câu chuyện được kết cấu thành hai tuyến, với hai chủ thể trần thuật khác nhau, dần được kết nối và thắt đuôi vào cuối cuốn tiểu thuyết bằng bản nhạc Danny boy của Bing Crosby (trang 564). Cả hai tuyến đều được trần thuật bằng ngôi thứ nhất, ngôi kể ưa thích trong mọi tiểu thuyết của Murakami, và đó cũng là đặc trưng trần thuật của văn học hậu hiện đại. Thế giới trong cách kể của những tác phẩm hậu hiện đại thông thường xuất phát từ góc nhìn cá nhân của nhân vật “tôi”, thể hiện sự mảnh đoạn và hỗn độn như chính những phức tạp và hạn hữu trong mỗi con người. Hai câu chuyện được trần thuật trong tác phẩm khác với những tác phẩm trinh thám kinh điển (lối nối tiếp), giữa một bên là câu chuyện về kẻ gây tội ác (chủ thể là thủ phạm), và một bên là câu chuyện về kẻ phá án (chủ thể là thám tử) theo lý thuyết của Todorov, Murakami đã trần thuật hai tuyến kể của mình theo lối song song. Cách trần thuật này cũng khác với kiểu kết cấu song song theo lối trinh thám của Dan Brow, bởi hai chủ thể trần thuật kì thực là hai “cái tôi” khác nhau của cùng một chủ thể, cho dù hai cái tôi ấy sống trong hai “thế giới” tách biệt và hai chiều thời gian tách rời nhau. Một bên là cuộc hành trình đi tìm kí ức, đi tìm ý nghĩa và hạnh phúc của một “toán sư” (người tạo các mật mã). Phía bên kia là cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa, bí mật của “nơi tận cùng thế giới”, truy tìm lại tâm hồn đã bị đánh mất của một “Người đọc mơ” (người giải phóng những tâm hồn). Cả Toán sư và Người đọc mơ, cùng với nhân vật “Bóng” đều là ba dạng “cái tôi” tồn tại khác nhau của cùng một bản thể. Chính vì vậy, Murakami đã phác thảo nên sự phức tạp trong tâm hồn mỗi con người và kết nối những cái tôi phức tạp ấy trong một câu chuyện đậm tính siêu thực, huyền ảo nhưng cũng đầy không khí và hơi thở của thời đại.

Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới là một trong những tiểu thuyết đồ sộ và phức tạp nhất của H.Murakami, cho dù bạn đọc có thể thấy quen thuộc với một số biện pháp nghệ thuật, motip, hình tượng và cách kể đặc trưng của nhà văn này trong những tác phẩm khác: những bản nhạc jazz, rock của phương Tây, vợ và con mèo cùng bỏ nhà ra đi, sự đam mê whiskey và bia, ám thị tính dục, người không có bóng, các chuyến hành trình truy tìm bản ngã, sự tồn tại song hành của nhiều cái tôi, thế giới của bóng tối… Sự phức tạp và đồ sộ về nội dung tư tưởng đến từ việc tác giả đã dụng công xây dựng một nhân sinh quan trong đó có nhiều “cái tôi” cùng tồn tại, nhưng chúng không đơn thuần tồn tại trong những thời điểm khác nhau theo kiểu: “cái tôi này ngủ thì cái tôi kia thức”, mà được đặt vào trong những không gian nghệ thuật khác biệt, song song tồn tại một cách độc lập. Mỗi cái tôi có riêng cho mình một thế giới, giống như mỗi người có riêng cho mình một tư tưởng. Trong thế giới có hàng tỉ con người, và rất có thể, trong con người có hàng tỷ thế giới. Motip này được lấy cảm hứng từ huyền thoại trong thần thoại Hy Lạp về việc chàng Orpheus xuống địa phủ tìm lại người vợ yêu thương đã mất. Tác giả từng tiết lộ: “Có thể hình dung thế giới chúng ta đang sống là một ngôi nhà. Có tầng trệt và tầng hầm. Tôi tin bên dưới tầng hầm vẫn còn tầng hầm nữa. Nếu thực sự muốn, chúng ta sẽ tìm được đường đi xuống. Cuốn tiểu thuyết này dẫn dụ theo hướng đó” (Murakami, 2003).

Sự đồ sộ và phức tạp về mặt tư tưởng trong tác phẩm nằm ở chỗ, Murakami đã thách thức chúng ta về quan niệm thực tại và thế giới. Tác giả không đặt mối quan tâm của mình ở vấn đề: đâu là thế giới bản nguyên? Đâu là thực tại chân xác? Mà buộc người đọc phải lựa chọn khó khăn về việc hiểu và cắt nghĩa: Đâu là điểm đáng nghi ngờ trong thế giới của chúng ta? Đâu là thế giới mà chúng ta mong muốn? Đâu là thế giới mà chúng ta tìm thấy hạnh phúc của mình? Giá trị và nội hàm của hạnh phúc là gì trong thế giới của chúng ta? Để cuối cùng, tất cả những những “cái tôi” đều lựa chọn cho mình một cách ứng xử đầy tính nhân văn, đượm chất bi quan nhưng cũng đầy tính hiện sinh. Về nhân sinh quan, đó là quan niệm cần thực hữu và dám sống với chính mình, cho dù đó là một cái tôi đầy bất toàn và đầy đau khổ: “Nhưng, nếu có khả năng làm lại cuộc đời một lần nữa thì tôi linh cảm mình sẽ sống hệt như vậy. Vì cuộc đời mất mát ấy chính là tôi. Tôi sẽ trở thành tôi, không còn con đường nào khác… không bao giờ tôi có thể trở thành gì khác với chính mình” (trang 520). Về thế giới quan, đó là một thế giới mà mọi khổ đau và hạnh phúc đều do chúng ta tạo nên, thế giới không nhiều hơn và cũng không ít hơn những điều mà chúng ta ngẫm suy về chính nó: “Tôi phải gánh trách nhiệm đó… Tôi không thể kệ thây những con người và cái thành phố do tôi tạo ra và cứ thế ra đi... Nhưng tôi phải chịu trách nhiệm cho những gì mình đã làm. Thế giới của tôi là ở đây” (trang 614).

Thông qua tác phẩm của mình, Murakami cũng đã làm hoang mang tất cả chúng ta khi đặt lại toàn bộ ý nghĩa và thực chất của thế giới, sự sống và cái chết. Liệu con người sẽ hạnh phúc hơn khi sống trong một thế giới bất toàn mà ở đó, nó là nạn nhân chịu cuốn đi giữa những sai lầm, tội ác, bất công, hay chấp nhận sống trong một thế giới tuyệt đối lặng lẽ, hoàn hảo và công bình do chính bản thể con người tạo ra? Ý nghĩa của thế giới nằm ở sự bất toàn của nó, nơi con người được phép tồn tại tâm hồn của mình, hay ý nghĩa của thế giới nằm ở sự vĩnh cửu nhưng con người chỉ còn là những cái bóng âm không tâm hồn? Ý nghĩa của sự hiện hữu nằm ở hành trình, có sinh tạo và có hủy tàn theo đúng quy luật sinh - lão - bệnh - tử, hay ý nghĩa nằm ở sự bất tử nhưng phải chấp nhận câm lặng mọi cảm xúc, không kí ức, không nhạc cụ, không tình yêu? Mặc dù mang cái nhìn bi quan, nhân sinh như những cuộc hành hương tuyệt vọng, và thế giới là một ẩn dụ do con người vẽ nên, kết cục tác phẩm cũng là những cái tôi cô độc như trong Biên niên ký chim vặn dây cót, nhưng tiểu thuyết của Murakami luôn ngợi ca tình yêu, cho dù đó là một tình yêu mỏi mòn và chờ đợi. Tình yêu giữa Người đọc mơ và cô thủ thư (trong nơi tận cùng thế giới), Toán sư và cô gái làm ở thư viện (trong thế giới “bên trên”) đã cứu chuộc và đem lại ý nghĩa cho tồn tại, cho hy sinh và cả cho cái chết. Ai cũng có thể có riêng một đáp án cho chính mình, một sự lựa chọn mà đôi khi ngay bản thân cũng không thể nào giải thích nổi, và cuối cùng, ba nhân vật (kì thực là ba cái tôi khác nhau của cùng một bản thể) “Người đọc mơ”; “Toán sư” và “Bóng” trong tác phẩm cũng đã có sự lựa chọn riêng theo những hướng khác nhau.

Mặc dù không tự nhận mình là một tiểu thuyết gia hậu hiện đại, nhưng trong Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, Murakami đã hoàn toàn sáng tạo nên tác phẩm dựa trên tâm thức hậu hiện đại cùng những kĩ thuật viết đặc trưng của trào lưu nghệ thuật này. Trong thế giới hiện thực thậm phồn (hyper - reality) mà nhân vật Toán sư đang sống, với sự thống ngự toàn diện và vô cảm của máy móc, các thiết chế quảng cáo và các sản phẩm tiêu dùng hàng loạt (văn hóa đại chúng), đặc biệt là sự lấn át của máy tính với vai trò của con người đã đặt các bản ngã vào sự cô đơn cùng cực. Những giá trị vật chất được biểu hiện thông qua các thẻ tín dụng, thẻ ngân hàng, đã lộ rõ sự bất lực và vô nghĩa tuyệt đối một khi con người đối diện với cái chết. Ngược lại, trong “thế giới tận cùng”, cách xây dựng hình tượng nhân vật của tác giả lại đậm tính “giải nhân cách hóa” (depersonalization), khi con người đánh mất tâm hồn, nó chỉ là cái bóng của chính nó. Thủ pháp “dễu nhại” (pastique) cũng được tác giả sử dụng khá tinh tế khi mỉa mai các sự kiện trên thế giới: xung đột giữa Israel và Syria, các nhà cách mạng, kinh tế toàn cầu… nhằm làm rõ sự trống rỗng và vô nghĩa của thế giới hậu hiện đại, từ đó biểu lộ tâm trạng “bất tín nhận thức” (epistemological) của mình. Hình thức phê phán và làm rõ sự giả trá của hai tổ chức là Hệ thống (tổ chức tạo mật mã và bảo vệ mật mã) và Nhà máy (ăn cắp và giải các mật mã) cũng chính là sự mất niềm tin và các đại tự sự. Hai tổ chức trên chính là cách viết ẩn dụ về những thiết chế cạnh tranh đối kháng nhau, nhưng thống nhất và có cùng bản chất: đều mang tính toàn trị, hoạt động chỉ nhằm mục đích lợi nhuận, sẵn sàng thủ tiêu con người nếu người đó không còn có giá trị sử dụng.

Với tất cả sự phức tạp và đồ sộ của mình, Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới xứng đáng vinh dự nhận giải thưởng Tanizaki (năm 1985) uy tín của Nhật Bản, là điểm gạch nối, chính xác hơn, đó là điểm xóa nhòa giữa hiện thực và mộng ảo, giữa bất tử và cái chết, hạnh phúc và đau khổ, tình bạn và tình yêu… Murakami đã kết hợp một cách tinh tế và sâu sắc cảm hứng và bối cảnh phương Tây với tinh thần và tư tưởng phương Đông, xứng đáng là sứ giả xuất sắc nối liền hai nền triết học Đông - Tây trong văn học ở thời kì toàn cầu hóa. Như thế, Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới là một cuốn sách lớn lao không chỉ nhằm hiểu về thế giới, quan niệm về thế giới mà còn nhằm hiểu về chính cái tôi của con người, về quan niệm cái tôi của con người trong thời đại chúng ta.

F.A

(255/5-10)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.