DƯƠNG PHƯỚC THU (Sưu tầm, giới thiệu)
LGT: Đã từng có một cuộc xướng họa thơ trên báo với số lượng người tham gia đông kỷ lục; 1324 lượt tác giả với 1699 bài họa. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu lại Vườn thơ đoàn kết do Báo Cứu Quốc - nay là Báo Đại Đoàn Kết tổ chức xướng họa thơ cách đây đã 43 năm.
Bộ trưởng Phan Anh - Ảnh: wiki
Theo Báo Cứu Quốc, tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ 21, họp ngày 6/3/1971, đã quyết định triệu tập Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào cuối năm đó. Nhân dịp này, Bộ trưởng Phan Anh, Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã làm bài thơ xướng theo thể Đường luật in trên Báo Cứu Quốc số 3529, ra ngày 21/3/1971. Bài thơ xướng như sau:
CÂY CAO BÓNG CẢ
Cây cao bóng cả ấy ai trồng?
Ngọn vút trời cao, gốc biển Đông
Cành, lá đỏ tươi hoa chiến sĩ
Vóc, mình vững chắc rễ công nông
Xua tan giông tố, chùn Tây, Mỹ
Đổi mới non sông, thắm Lạc Hồng
Điệp điệp trùng trùng che đất nước
Cây đây, rừng đó, Bác ta trồng.
Để lập thành tích chào mừng Đại hội, trên cơ sở bài thơ CÂY CAO BÓNG CẢ của Bộ trưởng Phan Anh, Báo Cứu Quốc mở cuộc họa thơ với mục đích ca ngợi Mặt trận đã đoàn kết các tầng lớp, các dân tộc trong cả nước một lòng chống ngoại xâm và nhằm động viên nhân dân ta thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Cuộc họa bài thơ CÂY CAO BÓNG CẢ trên Báo Cứu Quốc bắt đầu từ ngày 21/3/1971 và kết thúc trong dịp Đại hội lần thứ III, họp từ 14 đến ngày 17/12/1971, được người yêu thơ các giới hưởng ứng tham gia. (Những địa danh và tên tác giả trong bài này đều chép lại thời điểm năm 1972).
Tính từ thời điểm phát động cho đến khi kết thúc, đã có 1.324 lượt tác giả, gửi tới Tòa soạn 1.699 bài (có tác giả gửi nhiều bài). Số tác giả nữ có 117 người.
Các tác giả tham gia họa thơ thuộc nhiều tầng lớp trong xã hội và nhiều lứa tuổi khác nhau, từ người nhiều tuổi nhất là cụ Dương Học Hải, 89 tuổi (ở Đống Đa, Hà Nội), đến các cháu thiếu niên học sinh phổ thông, các cụ phụ lão, xã viên các HTX nông nghiệp, thủ công nghiệp, các nhà trí thức, giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên các cấp, cán bộ giảng dạy và học sinh đại học, công nhân xí nghiệp, nhà máy hầm mỏ, đồng bào theo đạo Thiên Chúa, các vị linh mục, các vị hòa thượng, thượng tọa, mục sư đạo tin lành, tu sĩ, cán bộ nhiều cơ quan trung ương và địa phương, những người làm nghề cá thể, chiến sĩ và sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, các cụ lang Đông y, các văn nghệ sĩ chuyên nghiệp, Việt kiều, lưu học sinh và cán bộ đang công tác ở nước ngoài, cả chiến sĩ đang chiến đấu trên tiền tuyến lớn v.v.
Hưởng ứng việc làm vô cùng ý nghĩa của Cứu Quốc, lúc bấy giờ dù rất bận công tác ở Pháp, Bộ trưởng Xuân Thủy cũng đã gửi về Tòa soạn bài thơ họa:
“Muôn năm ơn Bác khéo vun trồng
Cây cả nên rừng rợp biển Đông
Cành Bắc, cành Nam, hoa Thống Nhất
Ngọn gươm, ngọn giáo gốc công nông
Xâm lăng quét sạch, chồi xanh thắm
Xã hội vươn cao, trái đỏ hồng
Đoàn kết, đẹp thay Vườn Tổ quốc!
Muôn năm ơn Bác khéo vun trồng”.
Tòa soạn đã cố gắng dành chỗ công bố được nhiều bài thơ họa, để nhiều người nói lên được tấm lòng của mình đón mừng Đại hội Mặt trận. Nhưng do số trang báo có hạn, cho nên Cứu Quốc cũng mới chỉ đăng được 304 bài, tức ngót một phần năm số bài mà Tòa soạn nhận được…
Cuộc họa thơ đón mừng Đại hội ở nhiều nơi đã thành một sinh hoạt tập thể. Các cụ ở các tổ phụ lão những khu phố Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa… ở Hà Nội đã đóng góp một số khá lớn trong số 390 bài của các tác giả ở Thủ đô. Các cụ ở Hải Phòng cũng đóng góp với một tỷ lệ như vậy trong số 153 bài của Hải Phòng v.v. Riêng các tác giả là dân tộc Tày ở tỉnh Cao Bằng đã góp 93 bài… Công đoàn Thư viện Khoa học xã hội ở Hà Nội đã có sáng kiến chép bài thơ xướng CÂY CAO BÓNG CẢ rồi dán lên báo tường để mọi người xem. Sau đó, một số anh chị em ở đó đã làm bài thơ họa dán lên báo tường (cụ Ca Văn Thỉnh, Giám đốc Thư viện cũng làm một bài).
Trong số hơn 1.600 bài mà Cứu Quốc nhận được, có hơn 300 bài hoặc hoàn toàn làm không đúng luật thơ Đường tám câu, hoặc thất luật, thất niêm. Trong thư gửi Tòa soạn, ông Lê Văn, cán bộ Mặt trận (xã Yên Phụ, Yên Phong, Hà Bắc) viết: “Nói đến luật thơ Đường thì niêm, luật, ý, lời thật là khe khắt nên cũng ngập ngừng sợ sai sót. Nhưng không. Với nhiệt tình thì cứ làm. Thật là điếc không sợ súng”. Ông đã gửi bài tới Tòa soạn và còn cho biết thêm: “Ở xã, sau khi chúng tôi nhận được tờ Cứu Quốc, anh em chúng tôi tọa đàm với nhau rồi xuống các tổ phụ lão… Cụ ông cũng họa, cụ bà cũng họa… Có một điều đáng chú ý ở đội trồng cây hợp tác xã Yên Sơn có 51 cụ thì cả 51 cụ đều nhớ câu cuối của bài xướng: Cây đây, rừng đấy, Bác ta trồng”. Cứu Quốc chia sẻ với những tác giả nhiệt tình và trân trọng đối với những bài họa không đúng luật, cả với những bài đề là “thơ họa” nhưng có những câu dài 11 chữ: “Vườn cây Mặt trận Dân tộc Thống nhất Bác Hồ trồng”…
Nhiều tác giả gửi thư tới Tòa soạn hoan nghênh bài thơ xướng của Bộ trưởng Phan Anh nhưng cũng nói là vần của bài xướng “hắc búa” quá. Vì có hai vần trồng nên có nhiều tác giả họa theo thể thủ vĩ ngâm. Có một số tác giả nói rõ ý mình là muốn họa khác vần trồng ở câu kết (câu thứ 8). Có tác giả, như ông Vũ Văn Quế, Việt kiều ở Luân Đôn, họa chệch mấy vần nhưng bài họa của ông là một bài thơ Đường 8 chữ đúng luật, có tứ độc đáo, lại là lời phát biểu của một người con xa Tổ quốc gửi về đón mừng Đại hội, nên Tòa soạn cũng đã cho đăng.
Dưới đây xin điểm về một số thơ họa, qua các vần.
Vần trồng ở câu phá đề (câu 1):
Vần này đúng là “hắc búa” như nhiều tác giả nói, vì chữ trồng chỉ có một nghĩa. Nhưng với nhiệt tình cao, với lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Hồ Chủ tịch, Mặt trận, các tác giả đã có nhiều ý phong phú trong cả câu. Nhiều tác giả đề cập thẳng đến vần đề Mặt trận ngay từ câu này. Bạn Nguyễn Cung Mạc (Hà Nội) viết: “Kìa cây Đoàn kết Bác ta trồng”. Ông Đào Văn Định, ở thành phố Nam Định: “Trí thức ngày nay Bác khéo trồng”. Cụ Đông Thành Nguyễn Văn Tuy, ở khu Hoàn Kiếm, Hà Nội: “Rừng cây “Phụ lão” Bác ta trồng”.
Nhiều tác giả đề cập đến công ơn vĩ đại của Hồ Chủ tịch đối với dân tộc ta. Cụ Hoàng Hưng Tuân (dân tộc Tày, tỉnh Cao Bằng) viết: “Pác Bó nêu cao dấu Bác trồng”. Kỹ sư thủy sản Liêu Hải Phong (Hoa kiều, 68 Hàng Buồm, Hà Nội): “Bác Hồ trồng trước đến dân trồng”. Bạn Mai Xuân Đào (xã Quảng Sơn, Quảng Bình): “Dạo gót năm châu chọn giống trồng”…
Có những tác giả vào đề bài thơ như dâng thành tích của ngành mình lên mừng Đại hội sắp tới. Chị Phương Thị Thanh Điệp (HTX nông nghiệp Đại Thắng, Phú Xuyên, Hà Tây) viết:
Bèo dâu ai đó khéo ươn trồng
Nhân mãi màu xanh tiếp biển Đông.
Chị Nguyễn Thị Hồng (Ban Chấp hành Phụ nữ xã Hải Hà, Hải Hậu) vừa nói lên công ơn Hồ Chủ tịch, vừa nói lên sự trưởng thành của phụ nữ nước ta:
Liễu yếu đào tơ Bác khéo trồng
Cũng thành tùng, bách trấn trời Đông.
Bạn Vũ Văn Thành, cán bộ giảng dạy (ĐHSP Hà Nội 2): “Đội ngũ thầy, cô gắng sức trồng”. Bạn Văn Luận (HTX vôi ngói, Hòn Gai): “Mã Lương lớp trẻ Bác vun trồng”. Em Đỗ Thị Thu Hà (lớp 7A trường cấp II, xã Hải Hà, Hải Hậu):
Hàng cây non ấy Bác Hồ trồng
Nay đã thành rừng trắc cõi Đông.
Một ý khá độc đáo được bạn Lã Trọng Minh (Bộ Kiến trúc) nêu lên bằng cách liên hệ bản thân:
Tôi như cây cối được vun trồng
Hớn hở phô màu đón rạng đông.
Vần “Đông”:
Chữ đông cũng ít nghĩa. Nhiều tác giả dùng chữ “Biển Đông”, như bạn Hoàng An (Chợ Con, Hải Phòng): “Sức mạnh đào non, lấp biển Đông”. Bạn Thanh Tịnh (ĐHSP Việt Bắc): “Sức mạnh dời non, lấp biển Đông”… Phần lớn vần “đông” trong các bài họa đều có nghĩa là phương Đông. Cụ Nguyễn Thị Ất (Hà Nội):
Khí thiêng Tổ quốc đã vun trồng
Hồ Chí Minh ngời sáng cõi Đông.
Nhà văn Nguyễn Hải Trừng viết: “Một bức trường thành trấn cõi Đông”. Ông Vương Tô Văn, Chủ tịch MT huyện Ba Chẽ, Quảng Ninh: “Việt Nam xanh mát cõi trời Đông”.
Nhiều vần “đông” khác có nghĩa là đông đúc. Cụ Lê Hào (Hà Nội): “Mặt trận sum vầy đủ loại đông”. Chị Phạm Thị Đức Phương (ĐHSP Hà Nội) viết: “Cho bao thế hệ cháu con đông”. Bạn Đức Chính (Hải Phòng): “Chí vững gan bền sức lại đông”…
Vần “đông” còn được dùng theo nghĩa “mùa đông”. Cụ Hoàng Bá Chuân (64, Hàng Bạc, Hà Nội) viết: “Dầu dãi sương hè với tuyết đông”. Bạn Nguyễn Báu (Cục Hậu cần, Công an Nhân dân võ trang):
Bác chắc từ khi bới đất trồng
Cây xuân này sẽ chắn mùa đông.
Một số khá nhiều tác giả như bạn Nguyễn Trọng Tuất (ĐHSP Vinh) dùng vần “đông” để nói lên một chiến thắng lớn của quân và dân hai nước anh em Việt - Lào: “Đường 9, Khe Sanh tới Bản Đông”…
Vần “nông”:
Có một bạn họa thơ nói vui với chúng tôi: “Hai câu thực (câu 3 và 4) của bài họa kỳ này thực là gay vì vần nông”. Vần nông được tuyệt đại đa số dùng theo hai nghĩa thông thường của nó là nông nghiệp (công nông) và nông sâu. Nắm vững điều luật họa thơ Đường 8 chữ là chỉ được họa lấy một chữ vần của mỗi vần, không được lấy cả chữ đứng liền trước vần đó, cụ Chi Phương Nguyễn Hữu Hàm (Lâm Thao, Vĩnh Phú) đã họa một bài theo đúng điều luật đó. Nhưng, cụ viết trong thư gửi Tòa soạn: “…Tôi lại họa thêm một bài nữa. Bài này tôi “chịu vần” của tác giả. Bài đó có hai câu thực như sau:
Dẫu quả là phần chung đất nước
Mà mầm bắt rễ tự công nông.
Thực tế, rất nhiều bài thơ đã “chịu vần” của bài xướng như vậy. Nhưng vì mấy vần của bài họa “hắc búa” như nhiều bạn nói, Cứu Quốc đã phải chú ý nhiều đến nội dung chính trị, đến tứ thơ hay, đến chữ dùng đắt… của toàn bài và do đó đã đăng lên báo cả những bài có “chịu vần” như vậy.
Một số tác giả, như bạn Mai Thanh Thụ (Cục Truyền thanh) dùng một từ khác: “Tầm vông dám chống cự ca nông”. Bạn Lê Huy Điệp (khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Hà Nội): “Cây cỏ từng xua tụi ủy, nông” (ủy, nông tiếng Pháp: vâng, không). Trong tất cả ngót 1.700 bài họa, có một bài của bạn Mai Lâm, Hà Nội, đã họa vần đó một cách duy nhất thật độc đáo:
“Hợp sức công, nông, binh, trí thức
Họp đàn Kinh, Thượng, Khạ, Mơ Nông”.
Vần “hồng”:
Các tác giả thường họa vần này theo những nghĩa đen, nghĩa bóng thông thường của chữ hồng hoặc theo nghĩa Lạc Hồng, sông Hồng… Cụ Trần Trọng Thưởng (Mỹ Đức, Hà Tây) viết:
Trời đất nể gan dòng giống Lạc
Giang sơn tỏ mặt cháu con Hồng.
Bạn Quý Yến (Tổng cục Lâm nghiệp), nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã dùng vần “hồng” mà vẽ nên những bức tranh đẹp:
Phi lao lá hạ thêu rèm biếc
Dương liễu cành xuân dệt năng hồng.
(Quý Yến)
Đường quê bãi dệt vùng pha biếc
Xưởng máy lầu tô tía lẫn hồng.
(Đoàn Văn Cừ)
Chị Song Yên (giáo viên ở Hòn Gai) dùng hai chữ chị Hồng (tức nữ Anh hùng Lê Thị Hồng Gấm) để họa vần này. Một số tác giả như Thượng tọa Thích Linh Quang (chùa Phúc Hà, Ninh Bình), cụ lang Đông y Phạm Văn Thơ (Chợ Đồn, Ý Yên), bạn Lê Cảnh (Hương Sơn, Hà Tĩnh) đã dùng chữ hồng với ý nghĩa là loài chim hồng: “Cờ đỏ vàng sao thẳng cánh hồng” (cụ Phạm Văn Thơ). Cụ Ca Văn Thỉnh cũng dùng chữ hồng như vậy để nói lên lực lượng của nhân dân ta:
Sức dời non biển kinh hồn địch
Chí bạt trời mây vút cánh hồng.
Một số tác giả khác đã dùng chữ Diên Hồng, chữ này đã có nhiều bạn đọc nhận xét là dùng rất đắt. Chị Hà Đào Chi (ĐHSP Hà Nội 2) viết:
Nối chí cha ông thời Kiếp Bạc
Góp mưu trăm họ thuở Diên Hồng.
Bạn Trần Ngọc Lâm (285, Hoàng Văn Thụ, Nam Định):
Sát thát diệt Nguyên, hồn Kiếp Bạc
Khí thiêng chống Mỹ, lửa Diên Hồng.
Bạn Nguyễn Chi (Khoa Toán, ĐHSP Hà Nội 2) viết trong một bài họa theo kiểu “sang sợi” - lấy 8 chữ “Chúc Đại hội Mặt trận đại thành công” làm 8 chữ đầu 8 câu của bài thơ họa:
Trận tuyến đó, mài gươm Kiếp Bạc
Đại doanh đây, bàn kế Diên Hồng.
Vần “trồng” ở cuối bài:
Vần này cũng như vần “trồng” ở câu thứ nhất của bài thơ xướng, chỉ có một nghĩa. Nhưng nhiều tác giả cũng đã làm cho câu kết của bài họa có những ý độc đáo, đặc biệt là nêu bật được lòng biết ơn của mình đối với Hồ Chủ tịch, Đảng và Mặt trận. Cụ Nguyễn Văn Kỳ (Lâm Thao, Vĩnh Phú) viết:
Cao ngút non sông, ngăn sóng gió
Đi đâu cũng thấy bóng cây trồng.
Bạn Nguyễn Xuân Tạo (Hòm thư 740.492.JB03): “Bác nghĩ, chúng ta tiếp tục trồng”. Bạn Nguyễn Như Tiêu (huyện Xin-ma-cai, Lai Châu):
Gió lộng Trường Sơn hòa bốn biển
Bác còn sống mãi với cây trồng…
Ngoài những bài thơ họa theo kiểu thông thường, có một số tác giả họa theo kiểu “sang sợi” (như bạn Nguyễn Chi, đã kể ở trên). Cụ Áng Hải (49, Hàm Long, Hà Nội) lấy 8 chữ “Chào mừng Đại hội Mặt trận Tổ quốc” làm đề tài. Bạn Như Môn (Nhà máy cơ khí 1 - 5 Hưng Yên) lấy 8 chữ “Cây cao bóng cả, Bác Hồ vun trồng”. Các bạn Trường Thiên (Ty Thông tin Sơn La), Lê Như Sâm (khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Hà Nội), bạn Nguyễn Thế Canh (Ủy ban Nông nghiệp Trung ương) không hẹn mà gặp, cùng chọn 8 chữ: “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại”. Trong số những tác giả họa nhiều bài “sang sợi”, còn có cụ Lê Công Hợp (43, phố Cầu Gỗ, Hà Nội), ông Nam Hùng (12, Hàng Dầu, Hà Nội), chị Lê Thị Tuất (công nhân Nhà máy điện khí Thống Nhất) v.v…, còn có một số tác giả họa theo kiểu “thuận nghịch độc” (một bài đọc xuôi, một bài đọc ngược bài trên), họa bằng chữ Hán, họa theo thể thơ ngũ ngôn, họa theo thể song thất lục bát, v.v.
Trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi không thể điểm hết trăm sắc trăm hương của cả Vườn thơ Đoàn kết đón chào Đại hội lần thứ III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà đông đảo các cụ, các bạn đã chung sức chung lòng cùng trồng nên. Những câu thơ trích dẫn trong bài này cũng chưa phải là tất cả những câu điển hình nhất. Còn nhiều câu thơ hay, bài thơ hay cả về tứ, về chữ dùng, cả về kết cấu của bài, nói lên được sức mạnh của khối Đại đoàn kết của toàn dân tộc, lòng biết ơn của toàn dân ta đối với Hồ Chủ tịch, người sáng lập ra Mặt trận Dân tộc Thống nhất, mở đường thắng lợi cho cả nước, lòng biết ơn đối với Đảng lãnh đạo, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của toàn dân ta… Những bài thơ đó dù không có dịp đăng lên báo nhưng chúng tôi nghĩ đó cũng là những đóa hoa tươi đẹp đã góp vào Vườn thơ Đoàn kết để đón chào Đại hội.
Nhân dịp này Bộ trưởng Phan Anh đã gửi tới Cứu Quốc một lá thư với nội dung sau: “Cuộc xướng họa thơ do quý báo tổ chức đã kết thúc thắng lợi trong niềm tin tưởng sắt đá vào sức mạnh đại đoàn kết vô cùng to lớn của Mặt trận Dân tộc Thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, bảo đảm sự thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính mến, giải phóng miền Nam, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến tới một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần đắc lực vào cách mạng thế giới. Để tỏ lòng hâm mộ đối với các cụ, các bạn đã tham gia cuộc họa thơ và cảm ơn báo Cứu Quốc đã tổ chức cuộc xướng họa, tôi xin có mấy vần lấy đầu đề là: Ba cây chụm lại”.
BA CÂY CHỤM LẠI
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Núi cao nguồn nước dạt dào,
Rừng thơ hoa nở trăm màu, trăm hương.
Thật là giá đáng thịnh Đường
Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu!
Giá gương lồng phủ nhiễu điều,
Diễn đàn Cứu Quốc bao nhiêu hẹn hò!
Bắc - Nam một dải cơ đồ,
Cùng nhau nối gót Bác Hồ trồng vun.
Sao cho chung một trời xuân,
Núi sông vang dậy muôn vần thơ ca!
Rồi ra ta lại gặp ta,
Ấy là hứa hẹn, ấy là ước mong.
Muôn đội ơn lòng.
Cứu Quốc chân thành cảm ơn Bộ trưởng Phan Anh đã góp phần tốt đẹp vào cuộc họa thơ này. Đối với tất cả các tác giả đã có thơ họa gửi đến Vườn thơ Đoàn kết, Cứu Quốc xin phép dùng câu kết của Bộ trưởng Phan Anh trong bài thơ BA CÂY CHỤM LẠI đăng trên số báo ngày 16/12/1971, để nói lên ý nghĩa sâu sắc của chúng tôi: Muôn đội ơn lòng!
D.P.T
(Nguồn: Báo Cứu Quốc các số: 3529/1971, 3572/1972)
(SDB13/06-14)
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)
TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.
NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.
TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.
THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.
HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.
TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.
INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.
TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.
HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.
VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.
TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.
THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.
TRẦN HOÀI ANH 1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.