LÊ HUỲNH LÂM
Không khỏi bất ngờ khi cầm trên tay tập “Hôm qua hôm nay & hôm sau” của Vũ Trọng Quang do Nxb Đà Nẵng ấn hành vào tháng 1 năm 2006. Vậy là đã 9 năm.
Đến nay nội dung và cách trình bày tập thơ vẫn chưa đề mốt. Tác giả là người làm thơ từ những thập niên 70, từ trước 1975 anh đã cùng Linh Phương chủ trương Văn Nghệ Động Đất...
Chúng ta đều biết, sự chuyển động vật lý như biểu hiện cho cái đang tồn tại, cũng như sóng như đại diện cho sự lan truyền, chuyển động. Còn chuyển động là còn sống và ngược lại, bất động trong phạm vi nào đó là đồng nghĩa với chết. Nhưng chuyển động lùi còn tồi tệ hơn cả giẫm chân tại chỗ. Thơ là một dạng sóng để truyền cảm xúc của tác giả đến người đọc. Bài thơ còn lan truyền cảm xúc là bài thơ còn lý do để sống. Người làm thơ ngày nay rất nhiều, nhưng người có đời sống thi ca chỉ đếm trên đầu ngón tay, vì sự nhầm lẫn giữa nhà thơ và thi sĩ, nên chúng ta phải định danh lại, thi sĩ là người làm thơ và có đời sống thi ca trọn vẹn. Chẳng hạn như Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương, Hữu Loan,... hay như: Arthur Rimbaud, Walt Whitman, Rabindranath Tagore,...
Với thi sĩ thì mọi nhãn mác đều vô nghĩa, thậm chí cả sự vinh danh cũng là trò hề. Bản chất của thi sĩ là cô đơn, đứng bên ngoài và bên trên mọi tập thể hội hè. Thực tế, đây đó thường xưng tụng nhau là nhà thơ, nhà văn... Về mặt ngôn ngữ, chữ “nhà” là để chỉ không gian vật lý, là cái vỏ bọc bên ngoài. Nhưng với từ thi sĩ, văn sĩ thì chữ “sĩ” có ý nghĩa về đời sống nội tâm, về nhân cách, về tri thức... Vậy xét về mặt ngôn từ thì ở xã hội chúng ta ngày nay, thi sĩ thật sự không có nhiều. Cũng rất mong những nhác mác được gắn kèm chữ sĩ có đời sống và suy nghĩ thật tương xứng với cái tên gọi mà xã hội đã xưng tụng mình như tu sĩ, bác sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ,...
Vũ Trọng Quang đã bước trên con đường của ngày hôm qua, hôm qua thuộc về quá khứ, hôm nay mọi người cho là hiện tại và hôm sau được gọi là tương lai. Thật ra, mọi thứ đều trở thành hôm qua, hôm qua chính là hôm nay và cũng là hôm sau nếu xã hội đóng khung, xã hội không chuyển động. Tức là xã hội đi giật lùi, một xã hội không có hiện tại và tương lai.
Hôm qua là ký ức, là những gì đọng lại trong những trang giấy, những hình ảnh, những kỷ niệm cũng là cách gieo vần điệu truyền thống, khi mà những câu lục bát dập dìu trên vành nôi, những khung chữ ngũ ngôn đượm tình cảm quen quen của con người.
Ở hôm kia và hôm qua Vũ Trọng Quang là con người đã chết, là sự chết được mã hóa bằng chữ để kéo dài ra cái cảm xúc được tạo dựng trong thế giới thơ. Nhưng hôm qua mãi là hôm qua, không ai có thể thay thế được bản lý lịch quá khứ chính mình.
Và thời khắc hôm nay như ảo ảnh đi về phía hôm qua đã dẫn đưa mọi người đến một vực thẳm hư vô, chúng ta cứ chạy về phía tương tai để được xa quá khứ, tức là xa cõi chết, nhưng tương lai chỉ là một ảo thức biến hiện, tiến trình đuổi theo một cái ảo chỉ là một cái ảo. Cho dù biết thế, nhưng không còn cách nào khác để Vũ Trọng Quang không chùn bước tới trên con đường:
Tôi vẫy tay chào chia tay tôi hôm qua
Trở lại làm gì con đường mòn xưa cũ
Nhưng lực kéo của quá khứ cũng như thói quen đã biến thành quán tính, quán tính lùi của mỗi người trở thành quán tính của cả dân tộc do “nhiều bàn tay trăm tuổi kéo từ phía sau lưng”.
Nhưng niềm hoang mộng của tác giả lại rơi vào ảo mộng khi ngỡ rằng hôm này là một sự thật.
Tôi chào mừng tôi hôm nay
Cắt băng khánh thành con đường thênh thang mới
Thế giới này được tạo sinh từ cơn hưng cảm, chỉ ở trạng thái phân liệt như vậy thì mới có sáng tạo, nếu không chúng ta chỉ tạo ra mọi thứ từ các xác ướp. Bởi vậy, với khái niệm cái mới; nếu cái mới khô cứng, cái mới không truyền được cảm xúc, thì xem như là những xác chết được sơn quét lại. Tất nhiên, thế giới sẽ mở ra nhiều con đường khác, khác nhưng chưa chắc là mới, có điều mọi con đường đều nằm trên mặt đất này.
Trong tập thơ của Vũ Trọng Quang, bất ngờ là ở thì tương lai, là hôm sau. Hình như một gã triết gia nào đó đã nói: hôm sau cũng chỉ là hôm nay. Và theo luận điệu như thế thì hôm sau rồi sẽ thành hôm qua. Cứ cái kiểu chia thời đoạn ra như vậy thì sẽ không nhảy vào khoảng trống được. Đó là bi kịch của chúng ta, bi kịch của loài người. Bản chất của thế giới này là cơn hưng cảm, không phải là thời gian theo điệu suy diễn áp đặt cho con người như vậy, càng không phải là một không gian hứa hẹn xa vời hay một sự níu giữ quá khứ.
Khi đọc đến bài “tới &...” tôi nghĩ về Vũ Trọng Quang khác, cái khác đó là do quá khứ gán vào.
Nói về hình thức của thơ, riêng phần hôm sau chỉ với: ký hiệu liên tưởng, eros, design, đường ray, đánh vần, nhiễm virus, tự hủy,... thì những cái gọi là tân hình thức sẽ không tưởng tượng ra mẫu hình thức nào như vậy. Và chúng ta có quyền công nhận một dạng siêu tân hình thức hay siêu thực tân hình thức hoặc trừu tượng tân hình thức trong thi ca của Vũ Trọng Quang.
Trong bài “đường ray” là hình thức sắp đặt thơ theo hình đường ray, hay trong “nhiễm virus” là một diễn trình về lắp ghép từ vựng đã bị virus máy tính làm rối tung trong một trật tự khác. Trong “eros” là sắp đặt về ý niệm thi ca, nếu đứng sau mũi tên thì thuộc về quá khứ, bay cùng mũi tên là hiện tại và trước mũi tên là tương lai. Trong sáng tạo rất cần những con người đứng trước mũi tên, dù biết rằng mũi tên đó sẽ xuyên qua trái tim mình. Cái kiểu mà Vũ Hoàng Chương đã từng nói: “Lũ chúng ta, đầu thai nhầm thế kỷ”.
Với “tự hủy” thì thấy Vũ Trọng Quang càng khác hơn, hủy mà không hủy, khác mà không khác. Khi gương mặt tác giả bị xé thành bốn mảnh sắp ngược xuôi và bị đánh một dấu x màu đỏ, bi kịch lại chồng lên bi kịch. Nếu biết quên nhưng đừng để bị Alzheimer, thì mỗi chúng ta chỉ còn trạng thái của cảm xúc, có thể hạnh phúc hoặc khổ đau, nhưng ở đó không hiện hữu sự suy diễn. Cứ vậy mà trôi qua như nước trên dòng sông, hôm qua đã chết, hôm nay không dừng lại và hôm sau chưa đến, cứ thế mà đi, mà trôi trên dòng sông của chính mình, rồi sông cũng mất dạng, chỉ còn một vệt sáng của vì sao băng ngang nền trời... đâu cần phải “tự hủy” phải không anh Vũ Trọng Quang. Vì anh đã từng nói:
Tôi kiếm ăn bằng nhiều nghề khác
làm thơ để được nhẹ lòng mình
L.H.L
(SDB16/03-15)
THẢO LINH
Đà Lạt thành phố của ngàn hoa với những con đường trập trùng quanh phố núi với ảo diệu sương mù. Đà Lạt với cảnh sắc hữu tình và thơ mộng đã đi vào thi ca, nhạc họa từ bao đời nay và còn tiếp tục làm say lòng bao người đến kẻ đi.
TRẦN TRIỀU LINH
(Đọc Đi ngược đám đông - Thơ Đông Hà, Nxb. Thuận Hóa, 2014)
UYÊN PHƯƠNG
Bạn đang sống ở Thủ đô Hà Nội ngàn năm cổ kính hay giữa Sài Gòn hoa lệ vàng rực ánh nắng hoặc giả có thể ở bất cứ thành phố náo nhiệt nào trên đất nước Việt Nam? Bạn đang hòa mình vào nhịp sống đô thị với đầy ắp sự văn minh, hiện đại nhưng cũng khá ồn ào và bụi bặm, thậm chí có lúc bạn cảm thấy chán nản muốn rời xa sự xô bồ và ngột ngạt của chúng?... Vào lúc ấy, chắc hẳn bạn sẽ rất vui nếu được đi đâu đó vài ngày… Cảm giác khi tạm rời xa nơi thành phố cũng rất tuyệt”.
LÊ VIỄN PHƯƠNG
Thơ Tân hình thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” là công trình Tạp chí Sông Hương phối hợp với Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành vào tháng 6 năm 2014.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - gọi thân mật là Nguyên “đầu bạc” (vì mái đầu bạc trắng từ lúc còn trẻ) - một người xứ Nghệ “thuần chủng” cha ở Nghệ An, mẹ ở Hà Tĩnh, nhưng đang là Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Có thể nói cuốn “An lạc mùa chay - Món chay dâng Mẹ” của nhà thơ, chuyên gia ẩm thực Hồ Đắc Thiếu Anh (Nxb. Phụ Nữ, 2014) vừa được Nhà sách Phương Nam ấn hành trong tháng tám vừa qua, là cuốn sách thực hành về sự an lạc.
Tiếp sau Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh..., đến lượt Phan Khôi được mở hội thảo khoa học tại quê hương Quảng Nam hôm qua 6.10, đúng 127 năm ngày sinh của ông, để vinh danh một con người đa tài.
(Phỏng vấn đối thoại với các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc và nhà thơ Trần Dần)
Hữu Loan [1916-2010 là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca Việt Nam đương đại từ non 70 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự.
Tiểu thuyết "Công chúa nhỏ" của Frances Hodson Burnett kể câu chuyện về cô tiểu thư thất thế, nhưng vẫn mang trong mình cốt cách lớn.
(Vài cảm nhận khi đọc “BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA” tiểu thuyết của nhà văn TRƯƠNG VĂN DÂN
(cty vh Phuong Nam-Nxb Hội Nhà văn, 2011)
“Lịch sử không bao giờ lầm lẫn, nhà văn Lan Khai là người có công với nước”. Câu nói đó của Thiếu tướng Hoàng Mai đã khẳng định những cống hiến của Lan Khai đối với cách mạng và nền văn học nước nhà. Từ thành tựu sáng tác cho đến nhận định của các nhà văn, nhà báo tiền bối (Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan...) về Lan Khai, chúng ta càng thấy tự hào về một con người, một nhà văn đáng kính đã làm trọn thiên chức của mình đối với dân tộc...
“Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu cũng vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước…”
Khi cầm bộ sách này trong tay thì hình ảnh nhà nho yêu nước Phạm Phú Thứ không còn bị khuất lấp trong lớp sương mù thời gian mà hiện ra rờ rỡ, rõ ràng trước mắt chúng ta với một tâm thế mới.
“Có lần tôi hỏi anh Học: Tư tưởng cách mệnh của mày nảy ra từ hồi nào? Anh đáp: Từ năm độ lên mười tuổi! Hồi ấy tao còn học chữ Nho ở nhà quê...”.
NGÔ MINH
Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.
“Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.
Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.
Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.
Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.