NGUYỄN KHẮC THẠCH
Trên bàn tay Phật pháp vô biên hẳn còn nhiều hướng đi khác tích cực hơn và Tạ Thị Ngọc Thảo đã chọn phương pháp Vòng Thời Gian (hay Đạo pháp Calachakra) trong Mật giáo.
Tạ Thị Ngọc Thảo bên hoa sen - Ảnh: tuanvietnam
Đó là phương pháp độc chiêu mà sau khi thành Đạo, Đức Phật đã chỉ giáo cho một vị vua muốn tu đến chính quả nhưng không bỏ được bổn phận chăn dắt thần dân và đời sống vương giả của mình. Phép tu này giống Thiền tông ở mặt yếu lĩnh trực chỉ nhân tâm, còn mặt hình tướng bên ngoài được viên dung theo hướng chuyển hóa năng lượng qua sự đánh thức các quan năng phàm tục tương tác trong vòng ái dục mà không bị ràng buộc vào đó. Cũng có nghĩa cái biết và cái được biết ở đây được đồng hóa trong một cái tên gọi chung là buông bỏ. Có một chuyện thiền rất ý vị về việc buông bỏ này. Hai tăng đồ hành cước trên đường gặp một cô gái đang loay hoay tìm cách qua vũng nước. Biết ý, một vị ghé vai cõng cô ta qua đó. Còn vị tăng kia tỏ ra bất bình và hậm hực mãi đến khi về tới nhà thì trách đạo hữu “Người xuất gia sao lại còn cõng gái?”. “Ta cõng nhưng ta đã bỏ lại bên vũng nước ấy rồi, ngươi không cõng sao ngươi lại mang cô gái về đây?”. Vậy đấy, bỏ ra hay mang vào cũng đều ở tại tâm. Ngọc Thảo uyên thúy về lẽ đời chuyện đạo nên mọi ứng xử của chị đều minh xác và tinh tế. Chị từng đi nhiều nơi đây đó và rồi cũng đã đến Huế. Chị đến Huế không biết vì sự dẫn động của nghiệp hay duyên mà tâm luôn tưởng đến những việc an sinh trên nẻo đường phật sự? Từ việc đầu tư bệnh viện từ thiện, sửa sang chùa chiền đến những cuộc pháp thoại, pháp đàm... chị đều tác thành trong niềm hoan hỉ an nhiên. Những gì chị làm cho Huế đều có dấu ấn riêng không phải ở mặt lượng mà ở mặt chất. Tất nhiên nếu chỉ nói về mặt lượng không thôi cũng chưa thấy ai hào phóng một lúc chi hàng triệu đô như chị, kể cả các hào phú bản địa và các đại gia Huế kiều xa xứ. Song trong thực trạng của vấn đề, những công trình ở thì hoàn thành sẽ không sánh được với một tác phẩm đang ở thì tiếp diễn. Đó là Tịnh cư Cát Tường Quân được kiến tạo như một tác phẩm văn hóa nghệ thuật kì bí trên đồi Thiên An danh thắng. Đây là nơi lưu khách đặc thù dành cho những khát vọng tâm linh đi tìm giới hạn của mình trên những bước phản hồi văn hóa của nhân loại. Bởi vậy, khách tới đây trước hết và chủ yếu sẽ là những thiện tri thức hay những mặc khách tao nhân hoặc cũng có thể cả những tha nhân nợ duyên kì ngộ. Họ sẽ thông dự các hoạt động thân thiện với môi trường như ăn chay, trồng rau, quét rác, đọc sách và thực hành các dạo khúc mang tính thiền động trước khi vào buổi tọa thiền. Dù không phải là một thiền uyển hoặc thiền viện nhưng nó cũng mang năng lượng ám thị bởi quyền năng tư tưởng huân tập từ các không gian thiêng những linh căn gây hiệu ứng tỉnh thức và thức ngộ cho người có căn cơ. Hi vọng sau một kì lưu trú thụ hưởng niềm an lạc trong không gian Cát Tường Quân này, khi ra đi lữ khách sẽ “dính mắc” được một điều gì đó có ý nghĩa mở đầu. Đây là một công trình bổ sung làm giàu di sản văn hóa nhân loại trên đất Huế không chỉ về phần xác (vật thể) mà cả phần hồn (phi vật thể). Có thể nói Tịnh cư Cát Tường Quân là hình ảnh phóng chiếu bản thể và tâm sự của “thí chủ” Tạ Thị Ngọc Thảo. Mặc dù con người có tiến hóa nhưng không phải từ con vật lên mà là tiến hóa trong cái khung giống loài của nó. Từ sinh lí đến tâm lí rồi từ tâm lí đến tâm linh là những trạng thái đẳng cấp của con người. Cấp độ sinh lí ngã về loài vật, cấp độ tâm lí là thuộc tính con người, cấp độ tâm linh nghiêng về thần thánh. Tùy căn cơ và ngộ tính của từng chủ thể, ai tương hợp với cấp độ nào thì họ sẽ chan hòa với cấp độ đó. Còn ai thấy được chỗ huyền vi hằng hữu của sự sinh tồn thì người đó đã là một vị thần. Bằng thói quen tri thức thường tục và lối tư duy lượng đoán, người đời cho rằng mọi hiện tượng sự vật trong cuộc sống đều biến hiện một cách ngẫu nhiên và tự nhiên. Thế nhưng trong bản chất sâu xa của nó lại khác, tất cả phải tuân theo lộ trình logic biện chứng nghiệp lực. Những gì ở mỗi người đang có đang hưởng tại đời này là cái nhân gieo từ kiếp trước và những gì mà họ đang làm đang nghĩ ở đời này chính là cái quả của kiếp sau.
*
Cái mốc vào đời là những bước đi ngơ ngác khi vừa ra khỏi cửa Cô nhi viện Sài Gòn, bỏ lại phía sau một khung trời bàng bạc dấu ấn tuổi thơ bất hạnh. Dáng vóc mảnh mai đến mong manh với hai bàn tay trắng và một trái tim thương tổn bẩm sinh cùng cái đầu “rỗng” là thị thực bẻ bàng cho một cảnh ngộ mang mặc cảm tự ti đi mặc cả việc làm giữa chốn đô thị phù hoa.
Đó là tất cả những gì như được mặc định sẵn trên bề mặt hành trình vạn sự khởi đầu nan dành cho người tố nữ mang tục danh Út Thảo ngày ấy. Con người ta khi rơi vào bi cảnh, nhất là với phái nữ thì phần lớn họ chỉ biết chịu sự an bài, than thân trách phận nhưng cũng có người chiêu cảm được niệm chí cổ nhân thà thắp lên một ngọn nến nhỏ còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng đêm... Thế rồi qua biến dịch thăng trầm tương tục trong cõi người ta, với bản năng sinh tồn và bản sự tự tri, chị đã bấm bụng bước đi một cách minh bạch trong sự bỏ hờn để rồi ngoạn mục trưởng thành giữa cái xã hội phì nhiêu sắc tướng mà èo ọp nhân tâm. May mà đời còn dễ thương là lời đồng vọng từ đáy dòng chảy vô minh chợt le lói niềm lạc quan tịnh độ mà chị đã mục sở thị qua những tấn trò đời. Chưa lâu lắm, trên màn hình ti vi đã chiếu hình ảnh một bé tật nguyền trả lời phỏng vấn khi được hỏi về điều ước, em ấp ưởi nói chỉ mong làm những gì có ích để gi- úp người kém may mắn hơn mình. Chao ôi, một mảnh đời vốn rách như chiếc lá rách không cầu gì cho bản thân mà chỉ lo làm sao đùm bọc được những chiếc lá rách hơn! Tâm thức ấy, lòng bi mẫn ấy dường như là căn tính ở những kiếp tha nhân mưng lòng trắc ẩn hoặc ở những con người hiển minh phật tính. Út Thảo héo hon ngày xưa hay Tạ Thị Ngọc Thảo đĩnh đạc hôm nay thuộc tạng người vị tha, đa cảm và cao hạnh ấy.
Tiếng lành đồn xa là khí cụ của cơ chế hữu xạ tự nhiên hương cộng hưởng cùng hiệu ứng thông tin thế cuộc đã vẽ nên bức chân dung Tạ Thị Ngọc Thảo đa diện mà độc sáng. Đọc những bài báo của các tác giả khác chỉ thấy mặt “đa diện”, còn đọc những tác phẩm của chính chị viết thì mới thấy mặt “độc sáng”. Đa diện là từ góc nhìn những mảnh rời ghép lại, còn độc sáng là cái nhìn tại một điểm mà quán chiếu được toàn bộ những gì đang là.
![]() |
Chị Tạ Thị Ngọc Thảo nói chuyện với các ni ở Huế về kinh doanh trong phạm vi của chùa |
Bệnh nghề nghiệp khiến tôi xúc cảm muốn viết một cái gì đó về Tạ Thị Ngọc Thảo nhưng khi cầm bút lên rồi thì thấy nó trĩu nặng và không biết, nói đúng hơn là không dám viết gì hơn nữa. Xưa kia, Lý Bạch đứng trước Hoàng Hạc Lâu, cảnh đẹp khơi dậy trong ông niềm thi hứng nhưng khi thấy bài thơ bất hủ của Thôi Hiệu đề trên vách đã phải thốt lên: Cảnh đẹp trước mắt không tả được/ vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu (Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc/ Thôi Hiệu đề thi tại thượng lầu). Lý là vậy nhưng tình thì dù không viết được cũng không nỡ làm thinh. Tôi đã đọc đã nghe đâu đó rồi quyến niệm được đôi điều mang tính huyền sử từ những sinh mệnh từng trú xứ ở cảnh giới cao về thông dự kiếp người. Quan niệm đời người bắt đầu từ không và kết thúc cũng bằng không là cái nhìn biên kiến và áp đặt phân khúc sinh mệnh trong sự hiện hữu sắc uẩn. Trong không gian vật lí này, chẳng có sự hiện hữu nào cao hơn chủ thể của cái thấy sự hiện hữu đó. Tôi nghĩ Ngọc Thảo đã là người thấy mọi lẽ, cả những uẩn khúc và sự huyền vi qua trải nghiệm cuộc sống, qua lâm sự đời mình. Ở chị, có những câu chuyện có điểm kết thúc nhưng không có chỗ bắt đầu, lại có những câu chuyện có chỗ bắt đầu nhưng không có điểm kết thúc. Đời người nói chung về đặc tính giống loài vốn ngang ngửa nhau, sự sai khác chỉ xảy ra ở chỗ bắt đầu và kết thúc ấy. Từ điểm này, người ta có thể trở thành bằng hoặc thấp hơn hoặc cao hơn chính mình. Ngọc Thảo đã cao hơn chính mình qua sự nung nấu dấn thân trong thương trường để bước lên vị thế người trả lương chứ không phải người nhận lương như chị hằng tâm niệm. Chị đã kết thúc hai bàn tay trắng cùng cái đầu rỗng và những gì mang hệ lụy từ vô minh mà vô minh vốn không có điểm khởi đầu. Nói theo khẩu ngữ thời thượng thì chị đã trở thành một doanh nhân có “thương hiệu” trong hàng đại gia có máu mặt trên đất Việt. Khoảng 100 người giàu nhất nước ấy đã trồi lên giữa cơ chế mở trập trùng như sóng tụ tan tan tụ trên đường đi và đích đến với những giá trị mang ý nghĩa kết thúc hoặc mở đầu. Trong số họ, chị là người duy nhất không giống ai mà tôi biết chỗ khác ấy ở hai phương diện. Thứ nhất là trên đường đi, chị luôn dẫn lộ song hành sự tỉnh trí với niệm thức tâm. Tỉnh trí để mang lại hiệu quả cho hành động. Thức tâm để không làm hại người hại vật. Sự tỉnh trí ở chị còn là những triết lí kinh doanh, những luận giải đạo đời. Một nếp sống phong tục được an bài qua câu ngạn ngữ truyền thống Đói cho sạch rách cho thơm nghe quen tưởng chừng đó là bản sắc văn hóa dân tộc nhưng khi chị phản biện lại no mà sạch lành mà thơm vẫn hơn thì biểu tượng mặt trái của nó mới lộ ra. Sự nghèo đói thâm căn cố đế của người Việt ta có nguyên nhân sâu xa và tiêu cực nằm dài trong câu ngạn ngữ đó. Chỉ một phát hiện nho nhỏ và tinh tế ấy cũng đủ thấy tư chất và chiều kích một con người. Tiêu chí giải Nobel văn học thế giới có một điểm tương tự. Tác phẩm cần nêu được một vấn đề dù nhỏ và bình thường nhưng phải có tính phát hiện. Phát hiện về cái giản dị hằng diễn nằm đó mà không ai nhận ra. Lịch sử nhân loại cho hay bất cứ lĩnh vực hoạt động nào cũng phải có lí luận soi đường. Mỗi tôn giáo có sinh khí hay không đều phụ thuộc vào nền tảng học thuyết của nó. Cơ chế thị trường đẻ ra hàng loạt doanh nhân nhưng người có trí năng đột phá lí luận qua thực tiễn như chị quả là quá hiếm. Phương diện thứ hai là nơi đích đến. Đích đến của giới doanh nhân đều có thể qui chiếu vào một chữ có. Và khi sự có đã tới ngưỡng viên mãn thì họ càng “nô lệ” nó. Họ khư khư sự có, mở mang sự có, sang đoạt sự có bằng hào quang các loại nhãn mác, các loại danh hiệu. Với Ngọc Thảo thì ngược lại. Khi “đắc có” rồi chị lại hướng về cái không. Không tham luyến, không ràng buộc, không dính mắc, nghĩa là vô lậu. Chính nhờ đó, nhờ cái không vắng lặng trong tâm trí mà có chỗ chứa hay chỗ diệu hữu cho những phạm trù khác sinh sôi. Tại đây, chị mở ra một khởi đầu mới, khởi đầu không có điểm kết thúc. Đấy là suối nguồn minh triết thiêng liêng. Đấy là sự nhập lưu vào dòng chảy an nhiên của tâm thức cận ngộ. Cận ngộ là một cổng tri thức khác tri thức thường nghiệm, là bản lề kết nối bờ bên kia của Trí Huệ. Một cách nói khác thì đây là tri thức tâm linh ở cấp độ thấy chứ chưa phải ở cấp độ chứng. Dù vậy, cũng phải kinh qua đào luyện tâm linh một cách tinh tấn trong cuộc hành trình nội tại thì chị mới có được nó. Đó là cuộc hành trình cô khởi lột xác qua mọi kiết sử mọi triền cái trên con đường phản bổn qui chân. Là một phật tử trì giới tại gia nhưng chị lại đạt trình độ liễu nghĩa giáo lí tràn ra ngoài văn bản, đạt tới cực vô ngôn. Thấy được sự phù phiếm ở địa vị quí tộc thời thực dụng mà mình đã hoạch đắc giữa cuộc sống bon chen, giữa vạn hữu vô thường, chị liền buông bỏ nó với tâm thế nhẹ nhàng. Thực ra chị là một nhà quí tộc “kép”, khi cởi bỏ cái áo vật chất thì vẫn còn cái áo tinh thần. Di tính của quí tộc vật chất là sự hưởng thụ. Di tính của quí tộc tinh thần là sự cống hiến. Nhạc sĩ thiên tài Beethoven ý thức được điều này nên khi gặp sự kênh kiệu khinh khi của giới thượng lưu thời đó, ông đã chỉ thẳng vào mặt: hạng người như các ngươi thì nước Đức có nhiều còn Beethoven này chỉ có một! Khi biết sống là để cho thì người ta trở nên thanh sạch và cao thượng. Vào trạng thái này, lòng từ bi con người cũng được khai mở đến lượng siêu nhiên. Hạnh bố thí, cúng dường hay nói theo thời tính là làm từ thiện, lập công đức dường như ở chị cũng đã đi vào cảnh giới tâm vô nhiễm, mặc dầu vật và mọi quan hệ đối đãi vẫn còn nằm đó. Điều này khác với Bàng Uẩn cư sĩ trong điển giáo, khi được kiến tánh, ông đem hết của cải đổ xuống sông như một bước nhảy cuối cùng qua đoạn kiến chấp không.
![]() |
Chị Tạ Thị Ngọc Thảo, GS Cao Huy Thuần (phải) và một số bạn SV đại học Huế trong chuyến đi làm từ thiện tại xã Vân Phong (Huế) |
Trong con người và trong cuộc đời Tạ Thị Ngọc Thảo đã qui nạp nhiều tư cách mà tư cách nào cũng là sự kết tinh từ những trải nghiệm đớn đau chân chỉ. Tôi muốn dẫn ra đây một tư cách nữa mà mình có thể chia sẻ được với chị bởi nghiệp dĩ viết và đọc. Tôi đọc chị chưa nhiều nhưng những gì cần để tham chiếu cho cái gọi “văn là người” thì hầu như đã đủ. Là một doanh nhân mẫu (chữ của Giáo sư Cao Huy Thuần), một doanh nhân đạt được giá trị xã hội tôn vinh mà bao nhiêu người phải ngước lên thì chị đâu cần phải viết gì. Thời buổi này nó thế. Có lẽ chị viết không phải do nhu cầu giải toả những ẩn ức nội tại như các nhà văn thường nói mà viết để “pháp thí”. Pháp thí là hình thức từ thiện bằng trí tuệ tâm linh, nó cao hơn tài thí (tiền của) nên không mấy doanh nhân làm được. Điều này người xưa cũng đã nói. Khi Khổng Tử đến yết kiến Lão Tử, lúc về Lão Tử nói “Người giàu sang dùng của cải tiễn nhau, bậc trí giả dùng lời nói tiễn nhau...” Và rồi những lời khuyên của Ông đã làm cho Khổng Tử động lòng ám ảnh. Thực chất của pháp thí là lời chân thật mang năng lượng độ nhân. Mặc dù đề tài chị viết là bao quát từ chính trị - xã hội, kinh tế - văn hóa, khoa học - tôn giáo đến văn học nghệ thuật và sự kiện thì phóng túng từ vi mô đến vĩ mô nhưng hồn cốt của mọi vấn đề đều trong quỹ đạo ấy. Quỹ đạo thức nhận đường biên cứu rỗi hoặc ngưỡng cửa giải thoát. Mặc dầu viết lách chưa hẳn là sở trường nhưng bút lực Tạ Thị Ngọc Thảo lại rắn rỏi đẳng cấp chuyên nghiệp. Nó khẳng định tư cách nhà văn của chị. Hơn nữa, chị là một nhà văn có thiên tư khoa học. Khoa học ở chị bao hàm cả thực nghiệm lẫn huyền bí. Khoa học thực nghiệm chỉ gồm cái biết và cái chưa biết, khoa học huyền bí còn thêm cái không thể biết (bất khả thuyết pháp). Không thể biết chính là cái vi diệu của vũ trụ, là cứu cánh đích thực cho đời sống vô minh những kiếp người. Giọng riêng của chị thể hiện qua cửa sổ thi pháp luận đề hóm hĩnh mà sâu sắc, dung dị mà thẩm mĩ, chân phương mà giàu hàm lượng chất xám. Những chính kiến chân thành về sự thật mang tính phản đề cuộc sống, phản kháng xã hội luôn tiềm ẩn những rủi ro hiểm hoạ cho tác giả nói chung mà tác giả ở đây lại là một nữ doanh nhân không có sự bảo kê nào cả. Để thấy rằng nhân cách và bản lĩnh của người cầm bút chân chính bao giờ cũng sẵn lòng hi sinh mình vì Cái Đẹp. Cái đẹp cứu chuộc thế gian, Dostoievski đã từng lập ngôn như thế trong trước tác của mình. Đức Jesus đến từ nước Trời để cứu chuộc thế gian cũng bằng phương thức pháp thí và cuối cùng chịu đóng đinh phơi mình trên Thập tự giá. Hội đủ phẩm chất của một người trần thoát tục, Tạ Thị Ngọc Thảo trở nên hoàn hảo lành lặn trong cái thế giới rách nát khốn cùng mà mê lầm và ngộ nhận đến đáng thương này.
Viết về chị tưởng chừng như cả cuốn sách cũng chưa đủ nhưng nếu cần tóm gọn một câu thì có thể ám đạc rằng: Tạ Thị Ngọc Thảo là một doanh nhân chân tài, một phật tử chân tâm, một văn bút chân ngôn đang độc hành về phía chân không. Chân không ấy là lối đi riêng mà sau một đêm thỉnh chứng được Lục Tổ Huệ Năng ấn khả, thiền sư Huyền Giác đã biểu ngộ trong Chứng Đạo ca: Voi không dạo chơi trên lối mòn thỏ chạy.
N.K.T
(SH278/4-12)
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...
PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.