Vô thức và cảm hứng

16:12 05/12/2008
NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

Vô thức chứa những suy tưởng bị đè nén, những nguyện vọng bị vùi lấp, những giấc mơ và hy vọng như những cọng cỏ non dưới tảng đá mãi mãi không bao giờ ngoi lên được với ánh sáng của mặt trời lý trí. Thế giới của vô thức vì vậy hoàn toàn không thể hiểu được trừ hai trường hợp, khi chúng tự thể hiện trong những giấc mơ hoặc xuyên qua những rung động sáng tạo trong nghệ thuật như thơ ca và âm nhạc.
Những hoạt động tinh thần của vô thức được coi là các quá trình sơ cấp, nguyên thuỷ. Những hoạt động tương tự của ý thức và tiềm thức gọi là các quá trình thứ cấp. Trong quá trình sơ cấp, tinh thần vượt qua các quy luật hợp lý, phá bỏ các cấu trúc, chấp nhận các mâu thuẫn, hoà giải các nghịch lý lịch sử.

Những người làm thơ đôi khi trải qua một kinh nghiệm tuyệt diệu: trong một giấc mơ ngắn, một bài thơ dài được hoàn tất. Nếu khi ngủ dậy, anh ta còn may mắn nhớ lại đựơc, thì công việc của nhà thơ chỉ là ngồi chép lại một sáng tạo vô thức. Nhiều nhạc sỹ cũng có những kinh nghiệm tương tự. Có nhiều người còn đi xa hơn đến mức chuyên dùng các giấc mơ của mình làm căn bản cho các tác phẩm. Có những tác giả không chấp nhận việc sửa chữa và chỉnh lý các bài thơ vì cho rằng chỉ có những chữ đầu tiên những câu thơ đầu tiên là sáng tạo thần bí của vũ trụ, và như vậy mới có giá trị nghệ thuật.

Trong thơ, cảm hứng là điều quan trọng nhất, nếu so với những loaiå hình văn học khác như tiểu thuyết, tiểu luận, tuỳ bút. Ai cũng biết rằng có những tác giả viết một mạch nhiều bài thơ hay một lúc, nhưng cũng chính tác giả đó có thể năm bảy năm liền không cầm bút được. Vô thức có lẽ là người mẹ của cảm h?ng. Trong
những hoàn cảnh đó, một không gian nào đó, trước một tình huống đặc biệt, các động lực vô thức trở nên chín mùi và thúc đẩy sự biểu hiện chúng lên bề mặt của nhận thức. Các nhà phân tâm học tin rằng trong cõi sương mờ của vô thức, nguyên lý vui chơi (pleasure principle) là lực căn bản nhất chi phối các động lực. Vậy thì cảm hứng phải chăng là kết quả của nhu cầu vui thú của tâm hồn? Nỗi vui thú ở đây không nên được hiểu một cách hời hợt  như kiểu sự vui chơi của trẻ con, mà nên được xem là sự thoả mãn, hài lòng với chính mình. Khi một tâm hồn đang đau khổ vì sự mất mát, thơ đem lại sự biểu hiện và chia sẻ, và như vậy làm thoả mãn tâm hồn đó. Khi một kẻ tràn ngập hạnh phúc như trong mối tình đầu, trái tim hét to lên đến vỡ lồng ngực một niềm vui bất tận mà tuổi hai mươi không thể nào chịu đựng được nữa: khi đó thơ đến với anh, và nói cho anh biết rằng nó có những phương cách khác để mang niềm vui của anh đi tặng mỗi người và những cỏ hoa, và anh lập tức nhận ra rằng sự chia sẻ ấy càng chia ra càng được nhân lên, và hoá ra là chịu đựng nổi. Như thể tình yêu mang lại cho người thanh niên niềm vui, thường chỉ là chốc lát, nhưng thơ mang lại cho anh niềm vui thứ hai, có vẻ lâu bền.

Nhưng vô thức không phải là tất cả cội nguồn của cảm hứng. Khi nhà thơ gặp một điều mới mẻ, nhận thức bừng sáng trong tia chớp, đánh động những thói quen cũ kỹ, một lối sống cũ kỹ, những cột nhà và rường nhà kêu răng rắc, rung lên trong cơn bão nhận thức, căn nhà trí tuệ của nhà thơ, nơi trú ẩn tâm hồn anh, cũng tràn ngập cảm hứng. Ở những cá nhân khác, trí tuệ chọn cho mình những con đường phản ứng khác, nhưng ở người làm thơ, nó lập tức liên kết mình với sự xúc cảm. Chỉ khi nào xúc cảm thực sự bắt tay vào việc, bài thơ mới có cơ hội khởi đầu. Trí tuệ và xúc cảm đều thuộc về ý thức, nhưng xúc cảm gần hơn với các hoạt động vô thức, chính chúng là những kênh tương tác kỳ lạ giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lý trí và những điều thần bí.
Các tác phẩm đẻ ra các tác phẩm. Các nhà thơ kêu gọi nhau. Các tài năng có một tính chất đặc biệt là làm phát triển các tài năng khác. Sống giữa thời đại của mình, một nhà thơ bao giờ cũng làm nảy sinh trong tâm hồn một nhà thơ khác, thường là cùng một thế hệ với mình, có khi là bạn bè thân thiết, cái nhu cầu được sáng tạo y hệt và hơn so với nhà thơ đó. Tôi xin gọi đó là sự cộng hưởng và sự tranh đua lành mạnh. Sự cộng hưởng có tính vô thức, và sự tranh đua có tính ý thức.

Không có gì đáng ngạc nhiên là trong một xã hội văn minh và cởi mở, tương đối phóng khoáng, khi các nhà thơ tự do đi lại, xuất bản, trao đổi, bàn bạc, tự do tập hợp với nhau dưới những bảng hiệu khác nhau, trường phái khác nhau, kiểu Tự lực Văn đoàn, hay Nghệ an Thi xã, tự do nhậu nhẹt, tự do chơi bời, tự do sáng tạo, thì xã hội đó và thời đại đó có nhiều tài năng, và các tài năng này đều lớn, vì chúng được kích thích bởi nhau.
Do tính chất mong manh của nó, thơ thường sinh ra dưới bàn tay chăm sóc đùm bọc kỹ càng của rất nhiều cơ duyên trên đời, và vì nhạy cảm, thơ thường bay đi mất trước một cố gắng dù chỉ hơi phần nào dung tục. Xin đừng nhầm với đề tài: Thơ có thể nói về bất cứ chuyện gì, thậm chí về những đề tài tội lỗi, xấu xa, tục tĩu, dơ bẩn, căm ghét, cay đắng nhưng cội nguồn cảm hứng của nhà thơ bao giờ cũng chiếu rọi vào nó thứ ánh sáng làm nẩy lên hạt mầm mùa xuân, thứ ánh sáng của lòng tin và tình yêu cao thượng.

Vô thức không biết đến sự cao thượng, nó chỉ biết đến vui chơi.
Nhưng một đứa trẻ có thể được / bị dạy dỗ để trở nên vui thú với những trò chơi ác độc hay những trò chơi lành mạnh. Vũ trụ là mù, nhưng nhân loại cầm tay nhau đi qua sự mù loà của vũ trụ bằng khả năng tự nhận thức và bằng tâm hồn thơ ca như ngọn đèn thắp lên trên bậc cửa giữa hai thế giới hữu thức và vô thức.
N.Đ.T

(nguồn: TCSH số 208 - 06 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...