Vĩnh Linh bám trụ kiên cường

16:41 10/09/2009
NGUYỄN QUANG HÀ                       Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này:                “Đánh cho giặc Mỹ tan tành                Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”

Địa đạo Vĩnh Linh - Ảnh: vapa.org.vn

Đất Vĩnh Linh được nhân dân cả nước phong tặng cho bốn chữ đầy tự hào: “Vĩnh Linh đất thép”.

Lần đầu tiên nghe chữ “đất thép”, tôi hoài nghi, ngờ ngợ, tự hỏi: “Có phải thép thật không? Hay là sự tô hồng, thổi phồng lên thôi?”. Song khi đến Vĩnh Linh, thấy ngay Vĩnh Linh đúng là một mảnh “đất thép”.

Trong nhà truyền thống đặt ngay cạnh cửa hầm địa đạo Vĩnh Mốc, có một bảng trang trọng, đặt đúng vị trí để khách tham quan có thể nhìn thấy ngay. Nội dung của tấm bảng này như sau:

“Tội ác Mỹ ngụy trên Vĩnh Linh 1965 - 1975
- Bom đạn dội xuống: 668.876 tấn
- Số lần rải chất độc hoá học: 231 vụ
- Số lần ném bom napan: 231 vụ
- Số trận đánh phá bằng máy bay: 1353 trận
- Số lần thôn xóm bị diệt: 531 lần
- 5.117 người chết
- 4.200 người bị thương
- 15.656 ngôi nhà bị cháy sập
- 10.762 con trâu bò bị chết”

Diện tích đất Vĩnh Linh là 820 cây số vuông. Tôi làm con tính nhẩm, nếu 668.876 tấn bom đạn dội trên đất ấy, thì mỗi cây số vuông phải hứng chịu 815 tấn bom. Vị chi mỗi mét vuông phải chịu đựng tới gần một tấn bom đạn. Sức công phá của bom đạn như vậy không hiểu có gì sống nổi. Vậy mà dân Vĩnh Linh vẫn sống và vẫn chiến thắng.

Hai chữ “bám trụ” theo như tôi hiểu, bám là bám chặt mảnh đất quê hương mình sống, và trụ là đứng vững và chiến thắng ngay trên mảnh đất quê hương của mình.

Vậy thì làm thế nào mà Vĩnh Linh bám trụ được? Nói tới sức công phá của bom đạn trên đất Vĩnh Linh, trên môi mọi người đều bật lên câu hỏi ấy.

Nhìn những tấm ảnh chụp thời chiến tranh, Vĩnh Linh hoang vu như một sa mạc, và ngổn ngang đất đá của một chiến trường ác liệt. Chẳng thế mà dân Vĩnh Linh chỉ có 7 vạn người, mà đã có tới 5.117 người chết, 4.200 người bị thương. Vị chi cứ 7 người dân Vĩnh Linh thì 1 người bị thương vong.

Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, ở Nga có địa phương, cứ 30 người thì một người thương vong đã được coi là tàn khốc. Sự thương vong của Vĩnh Linh, chắc thế giới không thể tưởng tượng nổi, vậy mà Vĩnh Linh vẫn sống và chiến thắng, càng là một điều lạ ở đời.

Vĩnh Linh đã chọn cho mình một cách sống đúng phương sách nhất là cho trẻ con và ông già bà cả đi sơ tán mãi ngoài Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Bình,... để những người khoẻ mạnh ở nhà vừa sản xuất vừa tham gia chiến đấu.

Để sống được, tất nhiên là không thể sống được trên mặt đất, mà tất cả phải chui xuống đất để ở. Bom đạn suốt ngày như thế, đủ các loại, pháo biển, pháo mặt đất, từ trên máy bay trút xuống, không thể ở trên mặt đất thì đào giao thông hào từ làng này sang làng kia, từ xóm này qua xóm nọ. Tổng số hệ thống giao thông hào trên diện tích 820 cây số vuông là 2000 cây số.

Giao thông hào mới là đường đi, còn ở thì phải có hầm đào sâu dưới mặt đất. Tính ra, toàn khu vực Vĩnh Linh có 114 làng hầm với độ dài 40 cây số.Gọi tên làng hầm là chính xác, vì ăn, ở, ngủ và cả sinh đẻ cũng dưới làng hầm. Dưới làng hầm có đủ giếng nước, bếp núc, trạm xá, hội trường cho sinh hoạt của người dân. Kể cả xem chiếu bóng cũng xem ngay trong hội trường làng hầm. Hàng trăm ngôi nhà gỗ được dỡ xuống để kê chống vòm hầm. Câu ca dao ngày ấy là một nhân chứng cho Vĩnh Linh trước lịch sử:

“Nhà tan cửa nát cũng ừ
Đánh xong giặc Mỹ cực chừ sướng sau”

Làng hầm còn có một tên gọi khác: Địa đạo. Quy trình đào địa đạo là cả một kỳ công. Bắt đầu là một hình vẽ ước lượng trên giấy. Sau đó trên mặt đất cứ khoảng cách 50 mét đào một hố sâu giống như đào giếng. Cứ 5 người một hố đào. Đào đến một độ sâu nhất định, từ đó họ định hình hướng đào, kiên nhẫn từng nhát cuốc để tiến về phía nhau. Nói thì dễ như vậy, nhưng làm thật khó. Khi đã đào được độ dài cần thiết, đã đến lúc phải gặp múi đào đằng kia, không thấy nhau mới thật là nan giải. Họ dùng cuốc xẻng đập thình thịch vào mặt tường, dùng âm thanh tiếng động để tìm nhau trong lòng đất. Cái khao khát gặp nhau trong lòng đất đầy màu sắc hoang sơ da diết đến não lòng.Và khi nhát cuốc đã thông hầm, họ mừng như từ hành tinh khác trở về. Tất cả vỡ oà, như không có niềm vui nào hơn thế.

Cũng phải nói thêm rằng sự “khai phá lòng đất” ấy toàn cuốc, xẻng, dụng cụ đơn sơ. Lòng hầm thường đào theo hình chữ chi (z) nhằm tạo ra những chỗ gấp khúc chắc chắn hơn. Tại các cửa ra vào đường hầm chạy ngoằn ngoèo rất có lợi cho việc chắn các loại bom, đạn và mảnh của nó chạy theo đường thẳng vào địa đạo.

Đào làng hầm không phải đào trong tư thế, hoàn cảnh bình thường, mà đào trong tầm bom đạn. Khó khăn gian khổ chồng chất như vậy, song với lòng quyết tâm, sự cần cù sáng tạo phi thường, quân dân Vĩnh Linh và lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn trải qua 3 năm (1966 - 1968) đã làm nên một công trình đồ sộ, một thành quả lao động vĩ đại: Đào trên 3.759.270.000 mét khối đá để làm nên một hệ thống địa đạo diệu kỳ trong lòng đất Vĩnh Linh. Đó là biểu tượng của tấm lòng quyết chiến, của lẽ sinh tồn, một sống một chết với đế quốc Mỹ, khi chúng ngang nhiên tuyên tuyên bố rằng: “Biên giới Hoa Kỳ kéo dài tới vĩ tuyến 17”.

Một kỳ tích trong địa đạo là 60 đứa trẻ đã được sinh ra trong làng hầm. Có thể gọi đó là tiếng hát của Vĩnh Linh trong bão đạn mưa bom.

Điển hình làng hầm Vĩnh Linh là làng đia đạo Vĩnh Mốc. Nguyên gốc làng hầm này gồm 3 địa đạo chính: địa đạo của đồn biên phòng 140, địa đạo của dân quân Vĩnh Mốc, và địa đạo của dân quân Sơn Hạ. Do yêu cầu của phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, 3 địa đạo này được nối thông với nhau thành một hệ thống liên hoàn khép kín. Toàn bộ tường hầm chia làm 3 tầng (tầng 1 cách mặt đất 10 mét, tầng 2 cách mặt đất 15 mét, tầng 3 cách mặt đất 23 mét). Các tầng nối thông với nhau với tổng chiều dài 1701 mét, có 13 cửa ra vào, và 3 trạm cảnh giới ngày đêm.


Cửa xuống địa đạo Vĩnh Mốc - Ảnh: Internet


“Địa đạo Vĩnh Mốc như một toà lâu đài cổ nằm im trong lòng đất, ủ kín bao điều kỳ lạ của những con người đã làm ra nó và thời đại mà nó đã được sinh sản ra”. Đó là lời đề từ dẫn du khách vào thăm làng hầm Vĩnh Mốc.

Dân Vĩnh Mốc đã sống gần 2000 ngày đêm dưới làng hầm. Họ không chỉ chủ động tránh bom đạn, mà Vĩnh Mốc và cả Vĩnh Linh đã bám trụ rất ngoan cường trên mảnh đất quê hương mình, chiến đấu giữ địa bàn trên quê hương mình cũng là giữ mảnh đất địa đầu của Tổ Quốc về phía Nam trong những ngày chống Mỹ cứu nước.

Vĩnh Linh không chỉ ngẩng đầu chiến đấu, mà liên tục từng ngày chi viện cho miền Nam, rồi vận chuyển, tập kết lương thực, vũ khí, tổ chức hàng trăm chuyến thuyền cảm tử vận tải cho đảo Cồn Cỏ, nơi được Nhà nước 2 lần tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang, công lao ấy có sự đóng góp rất xứng đáng của Vĩnh Linh.

Bây giờ Vĩnh Linh đã xanh, những xóm làng đã trở lại trù phú, và Vĩnh Linh đã trở thành một địa chỉ du lịch thích thú của Quảng Trị.

Ngày ngày du khách trong nước và nước ngoài tấp nập tới mảnh đất thép này để thăm lại dòng sông Hiền Lương, một thời đã là dòng sông lửa, dòng sông tuyến, thăm lại cửa Tùng Luật, thăm bãi biển Cửa Tùng và đặc biệt họ không bao giờ quên đến thăm địa đạo Vĩnh Mốc, một làng hầm tiêu biểu trên đất Vĩnh Linh này.

Chỉ cần nhìn du khách lần lượt chui vào địa đạo Vĩnh Mốc đủ thấy hai chữ Vĩnh Linh đã trở thành tâm thức của nhân loại như thế nào.

Vĩnh Linh đã sống trong làng hầm, đã trở thành một pháo đài thép, là một sự tích diệu kỳ mãi mãi trên dải đất miền Trung này.

N.Q.H
(187/09-04)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN HỮU NHÀN                     Ghi chép Ngày nay đồng bào cả nước nô nức về Phú Thọ để tưởng niệm Vua Hùng. Theo sử sách cổ của Trung Hoa thì ông Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều pháp thuật, quyền năng phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương (1).

  • TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                     Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.

  • HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                        Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.

  • NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ                     Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.

  • VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…

  • NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.

  • YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.

  • NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.

  • HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.

  • NGÔ MINH             Ghi chép

  • NGUYỄN THANH TÚ                          Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

  • NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.

  • …Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG                                Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...

  • NGUYỄN VĂN VINH                                 Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui