Vịnh của những giấc mơ

09:15 04/06/2019

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

Nhìn trên bản đồ, vùng bờ biển của Huế là một dải đất hẹp, mỏng như lưỡi liềm.

Bãi biển Lăng Cô - Ảnh: Phạm Bá Thịnh

Có cơ hội đi máy bay, thỏa sức ngắm Huế từ trên không trung và mỗi lần máy bay đáp cánh xuống sân bay Phú Bài, tha hồ ngắm biển, ngắm bãi cát vàng, đồng xanh và xa xa là những cụm mây gần núi. Dải cát dài óng ả ấy là một dải yếm vững vàng trước biển cả bao la. Huế có rất nhiều bãi biển đẹp, đủ để cho người yêu biển lập kế hoạch du lịch, có khi mất hết cả tuần lễ vẫn chưa khám phá hết. Nhưng đi đâu thì đi, không một lần về Lăng Cô xem như chưa đi trọn hết thắng cảnh tự nhiên của Huế.

Bãi biển Lăng Cô dài khoảng 10km, thuộc thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, cách Huế tầm 60km. Tiềm năng nghỉ dưỡng của bãi biển này, lạ thay lại do một ông vua triều Nguyễn để tâm khai thác. Trong một chuyến công du mùa hè năm 1916, vua Khải Định đã phát hiện ra địa điểm du lịch nghỉ mát ở bãi biển Lăng Cô. Tại đây, nhà vua đã có được những ngày nghỉ thú vị, sảng khoái. Sau đó, vua liền ban lệnh cho Bộ Công đưa vật liệu về Lăng Cô xây dựng một hành cung để nhà vua nghỉ mát vào mùa hè, đặt tên là “Tịnh Viêm” nghĩa là làm dịu sự nóng nảy, bức bối. Hiện nay, ở thôn An Cư Đông còn giữ một bia đá khắc bài văn của Vua Khải Định ca ngợi vẻ đẹp của Lăng Cô: “Thôn yên đảo vắng, nơi đây mây biếc ráng hồng, bãi hạc hầm cò. Đất từ núi thẳm, đảo cát giăng ngang, sông tiếp đại dương, dòng chảy quanh quất. Trông về núi thì thấy mây lạ bay lên từ hang hốc, như những nàng tiên múa ở non bồng. Nhìn xuống dưới nước thì gió xô sóng biển như muôn ngựa về chầu. Đắm nhìn hồi lâu, bất giác cả người mát rượi, sự nóng nực tan biến, lòng thấy hớn hở ra”. Tính “Tịnh Viêm” của vịnh biển Lăng Cô đã hiểu như thế đó. Từ đó, Lăng Cô trở thành một điểm du lịch nổi tiếng cho tới bây giờ.

Lăng Cô, có thể bắt nguồn từ “Làng Cò” hoặc “L’Anco” phát âm chệnh mà thành chăng. Nhưng tôi bị thuyết phục bởi cái tên Làng Cò hơn. Nhiều lần chạy xe trên đường quốc lộ, qua Lăng Cô, thấy cò bay rợp trời, bay vào núi Bạch Mã, bay qua biển mịt mùng. Lúc chạng vạng, nhìn về phía đầm Lập An, cánh cò bay chấp chới rồi đậu trắng trên những hàng cây ven đầm. Lại có lần đi tàu về Lăng Cô chơi, gọi là đi tàu chợ giá rẻ, ngồi cùng gà vịt, đồ ăn thức uống, muôn tiếng ồn ào. Tàu đi qua ga nào cũng dừng, người lên kẻ xuống rất rộn rang. Đi tàu chợ cốt thấy cuộc sống dân dã, thấy những nỗi niềm mưu sinh bày ra đầy trăn trở trước mắt. Sắp tới ga Lăng Cô lại nghe người ta tranh nhau giải thích về cái từ Lăng Cô. Mỗi người mỗi ý, nói nhiều thành cãi, mà cãi thật. Tôi để ý đến một ý kiến nói thẳng, Lăng Cô thì là Lăng của Cô chứ gì nữa. Sau nghe chuyện, có một vị trưởng ga vào thời Pháp thuộc mất vợ đã xây mộ phần của vợ mình trước mặt vùng ga lúc đó gọi là ga An Cư theo lý giải của Nguyễn Tiến Vinh, một người con quê hương này. Vị trưởng ga và vợ là người ở Hải Phòng, dân thường gọi sếp ga là thầy và vợ là cô nên lăng của vợ sếp ga gọi là “lăng cô”. Từ sự kiện ấy mà dân buôn dần dần chuyển tên ga An Cư thành Ga “Lăng Cô” từ bao giờ người này truyền miệng người kia, dần dần mọi khách đi tàu dường như đã quên cái tên An Cư mà chỉ nhớ đến Lăng Cô. Mỗi cách lý giải đều có cái hay, cái hợp lý riêng nhưng tên Lăng Cô bản thân nó cũng là sự hợp lý nhất cho dù nguồn gốc có như thế nào.

Ra đầm - Ảnh: Hoàng Xuân Sáu


*

Ngắm trọn Lăng Cô nhất là khi đứng trên những cung đường lên đèo Hải Vân phóng tầm mắt xuống, thấy từng lớp sóng xô bạc mái đầu, thấy màu trắng của cát trải dài ngút mắt, màu xanh của dừa, của phi lao và màu đỏ của những mái nhà ngói quanh vịnh biển. Lăng Cô nằm ngay vị trí đắc địa là eo biển miền Trung, bãi cát vì thế có dáng một đường cong khổng lồ, duyên dáng. Những ngày biển căng gió, chiều về Lăng Cô đắm chìm trong làn sương mờ ảo của bụi nước. Biển xanh thăm thẳm phía ngoài, ôm lấy doi cát trắng phau, mượt mà. Tôi đã đi nhiều bãi biển nhưng không đâu có thứ cát mịn màng như Lăng Cô. Dẫm chân lên cát ra biển cứ ngỡ dẫm lên tấm nệm êm, tưởng như nhún xuống mình sẽ bay lê trời. Lẽ vì cát nhỏ, màu sáng, cát như ngọc bày mình ra cả chục km để làm vui lòng khách thập phương. Ngày đó, khi mộng mơ trăng sao, chúng tôi đã viết tên mình trên cát, trái tim và những ước mơ chân thật. Tình yêu cùng ngắm sóng cuốn xô như đàn ngựa từ biển vào đất liền, ngắm mây kỳ ảo bay lên từ khói sóng, thấy núi xanh mơ hồ.

Lữ khách đến Lăng Cô vì vẻ quyến rũ của vịnh biển, toát lên cái đẹp đơn sơ, mộc mạc và giấu trong lòng nó những ẩn dụ không thể gọi tên. Bức tranh vịnh biển ấy biến chuyển không ngừng, mỗi thời khắc là mỗi vẻ đẹp khác nhau. Mùa xuân, khi những cơn mưa phùn day dứt đổ xuống ướt đẫm cả ngọn núi và Lăng Cô chìm đi trong làn nước mỏng, mịt mùng thủy mặc. Rồi bất chợt, bãi cát dài bỗng bừng sáng lên khi làn nắng xuân chạy xuống rong chơi. Khung trời trổ ra từng ô cửa nhỏ, ánh sáng theo đó kéo nhau về. Mùa hè, vịnh biển dát lên mình ánh bạc lấp lánh đêm ngày. Những ngày đó, Lăng Cô thức cùng mùa hè vui, mặt trời, cát nóng và hàng ngàn bước chân về đây bên vịnh biển. Lăng Cô tỏa sáng, rạng ngời hòa vào nguồn vui sống căng tràn của mạch “tịnh viêm” ngày nào. Mùa thu khói sóng lên cao, một vùng mây nước quyện nhau giao hòa, để gửi ngàn ước mơ dâng hiến. Mùa đông, mưa tã, ướt át, biển động, sóng dữ và Lăng Cô như một cô gái yếu ớt, cam chịu nằm giấc ngủ dài đầy mưa gió.

Lăng Cô 19 - Ảnh: BTH


*

Tôi nhớ như in lần ngắm bình minh trên biển đầu tiên trong cuộc đời cùng với ba trong mùa hè tròn 7 tuổi. Sáng đó, tôi dậy thật sớm, lặng ngắm những đợt sóng êm ả vỗ về bờ cát, xa kia dăm ba cánh chim biển bay đi trong ánh sáng mờ ảo như đâm vào những cuộn mây hồng lơ lửng. Một khối cầu khổng lồ màu đỏ từ từ nhô lên trên mặt nước tối. Bắt đầu là một viền hồng rồi cả quầng nước hồng nằm dưới mặt trời rực rỡ. Gương mặt ba tôi lúc đó sáng màu hồng, những người trên bãi cát cũng một màu như thế, ai cũng vui tươi lạ kỳ. Khi mọi thứ đã bừng sáng, tôi lao mình vào dòng nước trong xanh.

Nhớ những ngày hè ngập nắng, anh em chúng tôi về Lăng Cô chơi tại nhà người chị con cậu ruột. Ngày ấy, Lăng Cô còn hoang sơ, lác đác một vài cơ sở nghỉ dưỡng của nhà nước. Nhà chị quay mặt quốc lộ, quanh nhà là cả vườn xoài chỉ cách biển một đồi cát trắng. Ngủ dậy, cả khu vườn thơm ngát hương xoài, lẫn vào vị biển mằn mòi, mê hoặc. Sớm sớm, chúng tôi thi nhau ù té chạy lên đồi cát để ra biển, hòa vào dòng nước trong mát, vỗ về. Có những ngày, không có ai ở nhà, một mình tôi lang thang ra biển, ngồi bó gối trên bãi cát dài trắng xóa những hàng dương, nhìn xa xăm vô số ánh chớp xé tan trời mây xầm xập. Những ngày bắt đầu lớn ấy, ý nghĩ trào lên như sóng cắc cớ về cái tôi nhỏ bé, tương lai, hiểu biết về thế giới này, cuộc sống này. Mắt tôi vằn vện tia sét tức bờ duyên hải, thấy biển rộng lớn khôn cùng. Một lão ngư đi qua với chiếc lưới bủa, hăng hắc mùi biển mặn. Vị ấm nồng ấy như kết nối tôi với biển, người con biển cả. Điếu thuốc rê vấn víu trên tay, ông đưa lên phà làn khói mảnh dấu xóa những bóng thuyền xa xa. Một buổi chiều yên, ráng hoàng hôn nhuộm tím bao đầu sóng lơi lả vỗ lên bờ. Lão ngư nói: “Chớ thấy non cao mà sấp mặt, thấy biển rộng sông dài mà xoay lưng!” Công việc của biển cả là công việc của muôn đời. Bầu trời trôi nhẹ trên đầu, tôi cố xua tan đi lớp lớp mây đen bằng hồi ức của những cơn gió thổi nghiêng hàng dương rì rào. Biển đang hát khúc ca của những ngày náo nức, mùa hội yên bình. Biển nói với chúng ta rằng: “Biển rộng mặc biển, thuyền chèo có ngăn.”

Sóng vẫn vỗ vào cát Lăng Cô, nhắc nhở ta về điều muốn nói. Quên đi những vui chơi dưới bãi biển, thú ăn uống trong các nhà hàng, chúng ta về đây, ngồi dưới những hàng dương râm bóng trong ánh nắng mùa hè cảm nhận mùi hương thầm kín cố hữu của Lăng Cô lan xa đến tận những giấc mơ nhỏ. Mùi biển mặn nồng, tươi mát theo cơn gió thoảng, gợi lên màu xanh hùng vĩ, mênh mông. Mùi cát khô rạo rực dưới chân, nhắc ta nhớ về những dấu chân lầm lũi bao đời bên biển vắng. Và vô vàn mùi cây cỏ trên đồi cát, hắt ra những tiếng thở tinh khôi thơm ngát của loài sâm sát, muống biển, tràm dầu. Giờ đây, trước mắt ta, mùa hè bày ra cảnh vật im lặng và buồn hiu. Những bầy sóng lao xao chạy vào bờ, chạy mãi không ngừng về phía Hải Vân uy nghi xanh trên nền trời đứng bóng. Khi nắng nhạt đi, bức tranh buổi chiều tà mới đi những nét phác thảo với những bóng thuyền khơi xa, dải đất dài lúp xúp cây bụi gợi lên thứ cảm giác êm ả của cô đơn. Màu hoàng hôn nhập hằn lên nước da vàng những cô gái xuống biển tắm chiều, những em bé mình trần tung tăng trên bãi cát. Ở một góc nghiêng, biển Lăng Cô ôm trọn vào lòng nó sự yêu thương của tự nhiên không bến bờ, cũng như ta ôm trọn vào lòng một tình yêu bao la biển cả.

Lăng Cô trở thành thành viên thứ 30 của Câu lạc bộ “Các vịnh biển đẹp nhất thế giới” vào năm 2009. Năm 2019, tròn 10 năm của sự kiện chứa đựng nhiều ý nghĩa thực tiễn du lịch, văn hóa, thắng cảnh, khơi gợi niềm tự hào quê hương xứ sở. Cái đẹp của cảm nhận cá nhân riêng biệt đồng hòa cùng cái đẹp đại chúng, hẳn là một sự ưu thế, phổ biến. Lăng Cô giờ đây không phải của tôi, của Huế, của ai khác, nó là của toàn thế giới yêu chuộng cái đẹp của tự nhiên này. Và ai đó, thử một lần về Lăng Cô đặt lên tay mình nắm hạt ngọc dã tràng tròn xoe như mắt người lăn trong biển sóng, ngắm những dấu chân nhỏ trên bờ cát, màu biển xanh biếc cất bao tiếng gọi xa gần.

L.V.T.G  
(SHSDB33/06-2019)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...

  • PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.