Vĩnh biệt Gunter Grass!

08:10 19/05/2015

TRẦN PHƯƠNG LINH

Gunter Grass, tiểu thuyết gia nổi tiếng người Đức, từng đoạt giải Nobel văn học năm 1999, vừa qua đời ngày 13/4/2015 tại bệnh viện ở thành phố Lubeck-Đức, hưởng thọ 87 tuổi.

Ngoài là tiểu thuyết gia, ông còn là nhà thơ, biên kịch, nghệ sĩ đồ họa và điêu khắc gia. Ông được xem như người phát ngôn cho thế hệ người Đức sau khi đế chế Đức quốc xã sụp đổ, phản ánh được những tác động tinh thần tồn tại sau thời kỳ này với những người cùng thế hệ.

Gunter Grass sinh năm 1927 ở Danzig-Langfuhr (Ba Lan). Sinh ra trong một gia đình có cha mẹ làm nghề buôn bán nhỏ, thành phố quê hương và những ngày thơ ấu sống ở đây đã là cảm hứng cho nhiều tác phẩm của ông.

Trong Đệ nhị thế chiến ông đã tình nguyện đăng ký tòng quân cho quân đội Đức Quốc Xã khi 15 tuổi, sau đó bị quân đồng minh bắt tại Marienbad và đã ở trong trại giam tù binh từ 5/1945 đến 4/1946. Grass đã tự nhận với người Mỹ rằng ông là thành viên của Waffen-SS. Thế nhưng mãi đến tháng 8 năm 2006 ông mới công khai thừa nhận việc này. Trước đó, tiểu sử đã được công bố của ông chỉ là thiếu niên phụ giúp cho lực lượng phòng không trong năm 1944 và sau đó được gọi đi lính

Những năm 1947 - 1948 ông làm thợ đá ở Dusseldorf. Chính những năm tháng lao động này đã cho ông nhiều kinh nghiệm quý và ảnh hưởng đến những tác phẩm của ông sau này. Trước khi chuyển sang viết văn, ông đã học hội họa và điêu khắc ở Viện Nghệ thuật Dusseldorf (1948 - 1952) và tiếp tục học tại Đại học Mỹ thuật Berlin (1953 -1956), là học trò của nhà điêu khắc Karl Hartung.

Từ 1956 đến 1959, ông tham gia hoạt động điêu khắc, hội họa và cả viết văn ở Paris, và sau đó là ở Berlin. Trong thời gian này, những tác phẩm đầu tiên của ông đã ra đời. Thế nhưng, phải đến 1959, với cuốn tiểu thuyết đầu tiên - Cái trống thiếc (đã được dịch giả Dương Tường chuyển ngữ và xuất bản ở Việt Nam năm 2002), ông mới thực sự được văn đàn thế giới nhìn nhận. Và cũng với tác phẩm này ông đã được trao Giải Nobel Văn học năm 1999 vì tác phẩm mang tính ngụ ngôn gợi về một hình tượng lịch sử bị quên lãng. Tuy hơi muộn nhưng nó mang một ý nghĩa đặc biệt bởi nó rơi vào năm bắc cầu giữa hai thế kỷ 20 và 21. Nó đánh dấu sự trở lại của người Đức trên thảm đỏ của Viện Hàn lâm Thụy Điển. Cho đến nay, cuốn tiểu thuyết này vẫn được coi như một kiệt tác hàng đầu của toàn bộ nền văn học Đức.

Năm 1960, ông tham gia vào Đảng Dân chủ Xã hội Đức và trở thành một nhân vật quan trọng của đảng này. Ông đã có nhiều bài phát biểu ủng hộ cho một nước Đức thoát khỏi sự cuồng tín, cũng như những tư tưởng chuyên chế. Từ 1983 đến 1986, ông giữ chức giám đốc Học viện Nghệ thuật Berlin.

Ngoài giải Nobel, ông đã được trao nhiều giải thưởng, trong đó có Giải Georg Buchner năm 1965, Giải thưởng Fontane năm 1968, Giải thưởng Premio Internazionale Mondello năm 1977, huy chương Alexander-Majakowski ở Gdansk năm 1979, Giải thưởng Antonio Feltrinelli năm 1982, Huy chương Hermann Kesten năm 1995...

Những tác phẩm tiêu biểu của Gunter Grass là kịch Bác ơi, bác ơi (Onkel, Onkel, 1957), kịch Những đầu bếp ác tính (Die bõsen Kõche, 1957), kịch Còn mười phút nữa thì tới Buffalo (Noch zehn Minuten bis Buffalo, 1957), kịch Cưỡi ngựa phi tới, phi lui (Beritten hin und zurũck, 1958), truyện ngắn Mèo và Chuột (Katze und Mauns, 1961), tiểu thuyết Những năm của chó (Hundejahre, 1963), kịch Lụt (Hochwasser, 1963), tiểu thuyết Cá thờn bơn (Der Butt, 1977), tiểu thuyết Con chuột cái (Die Rãttin, 1986), Bãi chiến trường phía xa (Ein weites Feld, 1995)…

Gunter Grass đã bỏ ra nhiều năm để viết cuốn tiểu thuyết Cái trống thiếc. Để được xuất bản, ông phải gạch bỏ tới một phần ba cuốn tiểu thuyết. Một hôm Grass đọc lời tự thuật của nhà văn người Do Thái Josef Agnon, nhà văn cũng được giải Nobel Văn chương này viết: Tôi chỉ viết những gì Chúa khuyên. Grass thở dài và nói: - Đúng là ông ta sướng hơn tôi. Tôi phải tự mình suy nghĩ và viết.

Hầu hết các tiểu thuyết của ông đều là những câu chuyện ngụ ngôn hiện đại, nhưng cười ra nước mắt. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Cái trống thiếc của ông. Tiểu thuyết này kể về cuộc phiêu lưu kỳ lạ của cậu bé Oskar Matzerath - nhân vật chính. Năm lên 3 tuổi, cậu bé này được tặng một cái trống thiếc. Từ đó, Oskar quyết định không lớn nữa, quyết dừng lại trong thân xác cậu bé 3 tuổi bởi đã quá chán ngán thế giới người lớn. Oskar quan sát thế giới xung quanh bằng bề ngoài của một đứa trẻ nhưng tâm hồn dày dặn với trí tuệ của một người lớn. Cái trống thiếc gây ám ảnh bởi đã tạo dựng nên một chuỗi biểu tượng về thời Đức quốc xã. Nhờ nó, ta hình dung rõ ràng cuộc trở về quá khứ như một nhu cầu lương tri thường trực của người Đức hiện tại. Điều quan trọng hơn là vượt qua những ghi chép thông thường về thể chế Đức quốc xã, Cái trống thiếc đi vào từng ngõ ngách tâm tưởng của con người Đức lúc bấy giờ. Cái trống đồ chơi con nít của Oskar đã làm nẩy lên một thế giới nhố nhăng, kệch cỡm và bí hiểm; một nhân loại với thân phận ê chề vùi lấp dưới những đổ nát của lịch sử. Từ điểm nhìn ở tầm cao 90cm của cậu bé Oskar, thế giới trở nên thật méo mó, xô lệch, kì dị, lố bịch, bất an…

Chối từ sự phát triển bình thường của cơ thể, chối từ cuộc sống người lớn, Oskar đại diện cho một nước Đức bị mặc cảm siết chặt. Những dồn nén ẩn ức đầy bi kịch của Oskar chỉ có thể giải thoát bằng một giải pháp duy nhất: Hét càng to càng tốt. Hét - một sự bung phá nội tâm, đã trở thành cách thế sống, ứng xử trước xã hội, khát khao chứng tỏ sự tồn tại của mình, đã là phương cách của Oskar và không chỉ riêng của Oskar.

Người Đức cho tới năm 1959 vẫn chưa hết day dứt về thảm bại của Đế chế Đức quốc xã. Lúc đó, họ tưởng chừng cả dân tộc nằm bên bờ diệt vong. Người Đức vẫn còn ở trong mông lung: không biết làm gì, không biết đi về đâu. Tiểu thuyết Cái trống thiếc xuất bản đúng lúc ấy, đã thiết lập cho người Đức cuộc đối thọai với những truyền thống hào hùng của dân tộc, nó làm bừng tỉnh trong lòng người dân tinh thần và ý chí Đức, lịch sử dân tộc Đức, nó tạo sự hồi sinh của văn chương Đức sau thế chiến thứ hai.

Tình yêu cho thành phố quê hương Danzig cũng được ông đưa vào tác phẩm của mình. Danzig - một thành phố đã mất, một thành phố bị tranh giành giữa các nước láng giềng - đã được ông miêu tả với những dòng tưởng chừng không mảy may bi lụy, nhưng vẫn thấy rõ Danzig là nỗi đau của ông. Ông đã viết hẳn một bộ truyện dài 3 tiểu thuyết về Danzig với Cái trống thiếc là phần đầu và sau đó là Mèo và Chuột (Katz und Maus - 1961) và Những Năm Chó (Hundejahre - 1963).

Gần đây nhất ông cho xuất bản Bò Ngang (Im Krebsgang - 2003, được Anh Thư chuyển ngữ và xuất bản ở Việt Nam năm 2004) cũng là một câu chuyện về quá khứ. Sau Cái trống thiếc, Bò Ngang là cuốn tiểu thuyết được xem là thành công thứ hai. Câu chuyện trong Bò Ngang kể về con tàu Wilhem Gustloff, một con tàu du lịch chuyển sang chuyên chở dân tị nạn bị tàu ngầm Liên Xô bắn chìm vào tháng 1 năm 1945. Chín nghìn người chết chìm dưới đáy biển Baltic là một thảm họa đường thủy lớn nhất trong lịch sử. Bò Ngang kể lại rất quyến rũ về tấn bi kịch trên biển, qua đó thể hiện cách nhìn hiện nay của các thế hệ người Đức về quá khứ mà không một chút sợ hãi.

Năm 1979, Cái trống thiếc được dựng thành phim cùng tên, do Volker Scholondorff làm đạo diễn, với sự tham gia diễn xuất của các nghệ sĩ Đức và Pháp. Những ẩn dụ văn chương đã hiển thị một cách tài tình trong phim, với lớp hình ảnh siêu thực và khả năng tái sử dụng chủ nghĩa biểu hiện - phong cách đặc trưng của điện ảnh truyền thống Đức. Diễn xuất của diễn viên nhí David Bennent (vai Oskar) gây ngỡ ngàng vì mức độ thuần thục và thuyết phục. Cái trống thiếc đã giành giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes (1979) và Giải Oscar phim nói tiếng nước ngoài hay nhất (1980).

50 năm sau khi làm náo động cả thế giới với Cái trống thiếc, tiểu thuyết gia người Đức Gunter Grass vẫn chưa hết ngỡ ngàng về thành công bất ngờ của cuốn sách. Khi trao đổi đâu là nguyên nhân khiến Cái trống thiếc trở thành một tác phẩm có sức hút trên toàn cầu, nhà văn nói ngập ngừng: “Có lẽ, nó là một cuốn sách hay”. Cuốn tiểu thuyết đỉnh cao này của Grass đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng, góp phần giúp ông xác lập vị trí một trong những người khổng lồ của văn chương thế giới thế kỷ 20. Tuy vẫn ngỡ ngàng trước sức hút của Cái trống thiếc, nhưng nhà văn giải thích, cuốn sách viết về một trong những thời kỳ biến động nhất của lịch sử nước Đức nhưng vẫn chú trọng đến những chi tiết vụn vặt liên quan đến đời sống con người bình thường. Vì vậy mà độc giả tìm thấy sự gần gũi.

Trong những năm gần đây, Grass xuất bản hơn chục cuốn sách. Trong số đó có Peeling the Onion (Bóc vỏ hành) - cuốn hồi ký lần đầu tiên nhà văn thú nhận, ông từng đi lính cho Đức quốc xã. Cuốn hồi ký đã làm nảy sinh những cuộc tranh cãi nảy lửa về nhà văn từng được coi là “lương tâm của nước Đức”.

T.P.L  
(SH315/05-15)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.