Viết, đừng giới hạn

14:23 06/02/2017

TRU SA  

Tôi chưa từng nghĩ rằng sẽ theo văn chương. Trước đây là thế và bây giờ vẫn vậy, những gì tôi làm chỉ là viết xuống giấy những thứ sinh sôi trong cơ thể mình.

Ảnh: internet

Không có sự bén duyên giữa tôi với sự viết, đây có lẽ là sự chọn lựa lẫn nhau. Văn chương chẳng bao giờ lựa chọn ai dù làm người hầu hay ông chủ của mình, mỗi người tự ướm mình vào cõi thiêng liêng này. Tôi chọn việc viết văn vì tôi là kẻ phù phiếm, thích nghĩ ngợi, tưởng tượng và bằng đủ mọi cách ném mình khỏi lốt trần tục, qua những giấc mơ. Đọc sách với tôi cũng là một phương pháp để trí tưởng được mở ra, loại bỏ hết ấn phong, khiến mọi lỗ chân lông giãn nở, tiếp nhận hết sức mạnh từ thiên nhiên, vũ trụ. Tôi từng cầm cọ, để vẽ. Sau này tôi thôi cây cọ để cầm bút viết, nhưng cọ hay cây viết cũng là bút, viết văn hay vẽ cũng đều là nghệ thuật. Chọn lấy việc viết, tức là tôi đã tự chọn cho mình một số phận khác, khó khăn, đầy bất trắc.

Trong đầu tôi luôn sinh sôi đủ thứ kỳ quái, những hình khối hỗn độn, các khuôn mặt mờ tỏ cắm xuyên vào nhau đòi hỏi được lên tiếng. Tôi cũng nghĩ rằng nếu mình chỉ sống cuộc đời duy nhất, sẽ thật thiệt thòi dù có thọ trăm năm. Cái tôi này cần phải đi thêm nhiều con đường, sống nhiều cuộc người, thỏa chí trong mọi vai diễn trên sân khấu cuộc đời này. Mộng mơ chưa đủ, tưởng tượng chưa đủ, tôi viết. Sáng tạo ra những hình hài mới từ mình vẫn chỉ là một phần nhỏ trong việc viết của tôi. Đam mê và lớn hơn thế, là sự lên tiếng, nhát búa công lý giáng xuống kết án đủ thứ tội lỗi của mình. Đời sống này, ai cũng thế thôi, luôn có những tội lỗi bằng nhiều lý do khác nhau, chúng ta phủ nhận. Làm sao để có trách nhiệm với không chỉ những người mình thân, quen biết hoặc có cảm tình. Khi cứu một người trên đường, sẽ thiệt hại đến thời gian, lắm khi mất đi công việc béo bở, để cứu một con chim dưới móng vuốt mèo, ta sẽ phải đánh đuổi con mèo mà không biết rằng đã khiến con vật bị đói. Vừa rồi trên mạng xã hội có phát tán một video, đám người mổ trâu giữa đường lớn sau khi con vật chết vì tai nạn xe tải. Phải đánh giá vấn đề này thế nào? Một bầy người đói khát, man rợ giữa đường lớn. Tôi không nghĩ những người này thích/đã quen chuyện này, có thể họ đói thật hoặc không biết làm gì với con trâu đã chết nên đành xẻ xác để giao thông không ách tắc. Con vật thì chết rồi, còn đám đông này, liệu sẽ kết tội họ thế nào đây? Hô hoán đừng làm thế hay xông xáo vào đám người, đoạt lại từng miếng thịt còn nóng để đắp lại cho con vật, mong nó được toàn thây? Tôi đã không biết phải ứng phó thế nào, thế thôi, đành viết xuống. Những dòng dài, như điếu văn cho chú trâu tội nghiệp, những dòng dài để kết tội mình đã im lặng và những dòng dài hơn như một lời sám hối cho đám người đã “không biết việc mình làm”.

Rất nhiều người khuyên tôi bỏ viết, tôi vẫn viết. Cũng nhiều người bảo tôi đừng viết như thế này nữa, tôi vẫn viết theo ý mình. Có lẽ viết đã trở thành công việc của riêng tôi. Một trách nhiệm khó rũ bỏ chăng? Tôi cũng quên mình bắt đầu viết từ bao giờ. Rõ ràng không từ việc đọc quá nhiều sách hay từng học ở nơi có liên quan đến văn chương (thời gian đấy, viết với tôi chỉ là sự trả bài, tôi không quan trọng, chẳng quan tâm cho đến khi rời khỏi môi trường đấy). Có lẽ, hãy vứt béng sự kiểm thảo về thời gian, hoàn cảnh hay những thôi thúc dẫn dắt. Quan trọng là tôi đang cầm bút và chưa lúc nào lười biếng.

Đã không làm thì thôi, đã theo thì phải tận cùng. Trong những lúc viết, tôi luôn đặt cho mình nhiều rào cản, thách đố mình bằng việc đặt trước mặt một quân bài úp ngược rồi suy đoán về những điều sẽ xảy ra sau đấy. Nhà văn Đặng Thơ Thơ, người đọc nhiều nhất những sáng tác của tôi đã định nghĩa rằng, thể loại tôi đang viết là truyện âm. Còn dịch giả Nguyễn Hồng Nhung sau khi đọc một số truyện của tôi, đã nhận định “Nếu muốn hiểu văn phong của em, suy nghĩ của em cần biết rõ hơn thứ văn học em đọc, thứ văn hóa em bị ảnh hưởng... Tất cả những điều này có thể để thỏa mãn những người đọc em thì đúng hơn. Vì hình như em không quan tâm. Em cũng vẫn đi theo lối viết, cách suy nghĩ của em thôi, cô có thể nói chắc chắn như vậy. Cho đến bao giờ cái áo này chật đối với em. Một lối suy nghĩ đi từ dưới lên, chứ không phải đi từ trên xuống. Cứ như em là một kẻ bị chôn sống cùng những kho vàng làm thần giữ của, chẳng may một lúc nào đó em bỗng nhiên lộn vào vòng tái sinh thành người, nhưng chỉ trong thân xác.”.

Đừng bận tâm vào những gì tôi viết, hãy nói cho tôi xem bạn thấy gì sau khi đọc của tôi. Có những thứ không nói ra sẽ rất chán nhưng khi nói ra sẽ càng chán. Và nếu chẳng thấy gì làm mình hào hứng, hãy vứt sách tôi vào lửa để ít nhất nó còn có giá trị dọn dẹp lá rơi ngoài sân nhà.

Văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm hay với nhiều cách tân và giá trị nhưng có lẽ, ngay đến lúc này dù đã có nhiều sách được dịch, quảng bá khắp châu Á và một phần châu Âu, vẫn khiêm nhu. Lý do từ tầm ảnh hưởng nhiều hơn về vấn đề chuyển ngữ. Văn học Việt đã luôn và chỉ luôn biến đổi từ những nền văn hóa bên ngoài chứ chưa thực sự tác động, gây chấn sang ngược lục địa. Việt Nam thiếu nền tảng về kiến trúc thượng tầng, triết học, thần học, tôn giáo. Thiếu đi những nền móng lớn, thành ra văn học Việt Nam chỉ có hay, ít lớn, rồi khi có tác phẩm lớn thì chưa có thứ nào vỹ đại, tầm cỡ đến mức tạo thành một trào lưu toàn cầu hóa.

Tôi không có nhiều thầy và chẳng có mấy ai thực sự là thầy của mình. Nhà văn Võ Thị Hảo là người đã phát hiện và tán thưởng những thứ khỉ gió nhưng khốn nỗi ai cũng phủ định của tôi. Cô Hảo chẳng dạy dỗ tôi nhiều, chỉ truyền lửa và chắc chắn chẳng phải thầy, theo đúng nghĩa đội lễ bái sư. Tôi cũng nghĩ rằng văn chương chẳng ai dạy được ai, càng không cần một tượng đài để suốt đời chỉ tôn thờ. Ai tự đội lên đầu một thần tượng, sẽ chẳng làm được gì. Tôi cũng thế thôi, từng một thời gian tôi rất sùng Kafka nhưng tôi vẫn ném ông ta sang một bên. Tôi chỉ nhai nuốt, hấp thụ những gì tốt nhất của người khác. Có thể khốn đốn, tức tưởi trong một lão tiên chỉ nào đấy nhưng rồi vẫn phải thoát ra, về với thế giới của mình sau khi đã học được cách ăn thịt những nỗi đau. Yukichi Fukuzawa viết trong “Khuyến học” rằng “Con người sinh ra đều bình đẳng, khác nhau là do học vấn”, mỗi người viết hãy nên là một cá thể riêng, không hơn ai và không dưới ai. Đi theo cái bóng người khác, ngoài việc luôn thụt lùi, sẽ bị chính cái bóng đấy xóa sổ. Việc đọc rồi bị ảnh hưởng đơn thuần là sự học hỏi lẫn nhau. Người thầy tốt nhất và xứng đáng nhất phải là người giúp học trò mình thức tỉnh về bản thân, cả chỗ yếu lẫn thế mạnh, đặc biệt đừng nên giới hạn ai dù bằng ranh giới gì, lịch sử, văn hóa, chính trị hay màu da… Tiếc thay, tôi thiếu quá những người thầy “sống”, đành phải tìm đến những sensei “chết” mà không chết trong thung lũng sách. Những người viết trẻ hiện nay nhiều đam mê, lắm khát vọng cùng sự cầu tiến. Khác với thế hệ cũ, những người trẻ (bao gồm cả tôi hoặc loại trừ tôi đi) không bị nhiều chấn thương tâm lý từ chiến tranh, không hề bị chia rẽ bởi ý thức hệ. Sống trong thời đại thông tin, mỗi người sẽ dễ dàng tìm đọc mọi danh tác trên thế giới. Sách luôn sẵn có, vấn đề là chịu đọc và chịu hiểu không. Người viết trẻ không bị ảnh hưởng chiến tranh và đấy cũng là chỗ thiệt thòi khi họ sẽ rỗng một khoảng lớn trong đầu, bị đứt gãy về quá khứ. Thiếu lắm những trang viết dám đào xới lịch sử để phủi hết bụi ám nghìn năm. Trong lớp viết mới, từ Hạnh Nguyên, Huỳnh Trọng Khang, Đinh Phương… tôi đặc biệt chú ý (và ghi nhớ) hai cây viết đầy tiềm năng là Pháp Hoan (thơ) và Trần Băng Khuê (truyện ngắn). Họ mới mẻ và không chịu theo khuôn khổ, có nền tảng kiến thức rộng mà không khoe mẽ, khả năng ứng dụng kiến thức vào trang viết cũng rất bản lĩnh, hay nhất là hai người chẳng e dè gì khi cầm bút viết, không có rào chắn, không lo sợ, rụt rè, viết mạnh và bén như dao róc xương rồng. Thơ Pháp Hoan trong trẻo, chứa nhựa trầm mặc nhưng cũng đầy đau đáu, vết thương nhân sinh. Những sáng tác của Trần Băng Khuê mạnh về ngôn ngữ, các dòng chữ chảy xõa, lâu lâu lại thấy kẹt các miểng băng, khả năng sử dụng ẩn ngôn, phân tích những vấn đề nghiêm trọng từ dấu vết cực tiểu. Tất nhiên, đấy chỉ là những nhận xét cá nhân, đầy chủ quan và sơ hở của tôi. Nhưng hãy cứ thế, lớp trẻ phải mạnh bạo, đừng ngại bóp phanh khi thấy vực thẳm.

Truyện ngắn không hoàn toàn là thể loại tôi quá ưu ái. Hiện giờ tôi sẵn sàng cho một truyện dài hoặc tiểu thuyết, nên cứ tạm viết truyện ngắn. Thực sự thì tôi vẫn thường viết nối tiếp nhau qua từng truyện. Ví dụ, về chủ đề tóc, tôi có thể viết nhiều truyện khác có liên quan đến mái tóc, nhưng trong một chừng mực khác, có móc xích hoặc không với truyện đầu tiên. Tôi không phải người siêng đọc, cũng chẳng chọn lọc hay theo một hệ thống từ kinh điển đến hiện đại. Tôi đọc ngẫu nhiên, hễ thấy dòng viết này chảy vào mình là đọc, lắm lúc tôi còn nhắm mắt, vớ đại một cuốn trên tủ hay trong thư viện. Thời gian này, tôi đọc “Giải Phẫu Tự Ngã” của Takeo Doi, và phải ngừng lại trước khi đọc lần hai. Khi xong xuôi, có lẽ tôi sẽ chấp bút.

Đời tôi, nếu không phải cái mình nghĩ thì là cái mình viết, nếu không phải cái mình viết thì là cái người khác viết. Chẳng có gì đáng băn khoăn ngoài một thế giới luôn mong mỏi đánh thứ, từ một cá thể bệnh tật và bệnh hoạn, viết tên Tru Sa.

T.S  
(TCSH335/01-2017)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)