TRU SA
Tôi chưa từng nghĩ rằng sẽ theo văn chương. Trước đây là thế và bây giờ vẫn vậy, những gì tôi làm chỉ là viết xuống giấy những thứ sinh sôi trong cơ thể mình.
Ảnh: internet
Không có sự bén duyên giữa tôi với sự viết, đây có lẽ là sự chọn lựa lẫn nhau. Văn chương chẳng bao giờ lựa chọn ai dù làm người hầu hay ông chủ của mình, mỗi người tự ướm mình vào cõi thiêng liêng này. Tôi chọn việc viết văn vì tôi là kẻ phù phiếm, thích nghĩ ngợi, tưởng tượng và bằng đủ mọi cách ném mình khỏi lốt trần tục, qua những giấc mơ. Đọc sách với tôi cũng là một phương pháp để trí tưởng được mở ra, loại bỏ hết ấn phong, khiến mọi lỗ chân lông giãn nở, tiếp nhận hết sức mạnh từ thiên nhiên, vũ trụ. Tôi từng cầm cọ, để vẽ. Sau này tôi thôi cây cọ để cầm bút viết, nhưng cọ hay cây viết cũng là bút, viết văn hay vẽ cũng đều là nghệ thuật. Chọn lấy việc viết, tức là tôi đã tự chọn cho mình một số phận khác, khó khăn, đầy bất trắc.
Trong đầu tôi luôn sinh sôi đủ thứ kỳ quái, những hình khối hỗn độn, các khuôn mặt mờ tỏ cắm xuyên vào nhau đòi hỏi được lên tiếng. Tôi cũng nghĩ rằng nếu mình chỉ sống cuộc đời duy nhất, sẽ thật thiệt thòi dù có thọ trăm năm. Cái tôi này cần phải đi thêm nhiều con đường, sống nhiều cuộc người, thỏa chí trong mọi vai diễn trên sân khấu cuộc đời này. Mộng mơ chưa đủ, tưởng tượng chưa đủ, tôi viết. Sáng tạo ra những hình hài mới từ mình vẫn chỉ là một phần nhỏ trong việc viết của tôi. Đam mê và lớn hơn thế, là sự lên tiếng, nhát búa công lý giáng xuống kết án đủ thứ tội lỗi của mình. Đời sống này, ai cũng thế thôi, luôn có những tội lỗi bằng nhiều lý do khác nhau, chúng ta phủ nhận. Làm sao để có trách nhiệm với không chỉ những người mình thân, quen biết hoặc có cảm tình. Khi cứu một người trên đường, sẽ thiệt hại đến thời gian, lắm khi mất đi công việc béo bở, để cứu một con chim dưới móng vuốt mèo, ta sẽ phải đánh đuổi con mèo mà không biết rằng đã khiến con vật bị đói. Vừa rồi trên mạng xã hội có phát tán một video, đám người mổ trâu giữa đường lớn sau khi con vật chết vì tai nạn xe tải. Phải đánh giá vấn đề này thế nào? Một bầy người đói khát, man rợ giữa đường lớn. Tôi không nghĩ những người này thích/đã quen chuyện này, có thể họ đói thật hoặc không biết làm gì với con trâu đã chết nên đành xẻ xác để giao thông không ách tắc. Con vật thì chết rồi, còn đám đông này, liệu sẽ kết tội họ thế nào đây? Hô hoán đừng làm thế hay xông xáo vào đám người, đoạt lại từng miếng thịt còn nóng để đắp lại cho con vật, mong nó được toàn thây? Tôi đã không biết phải ứng phó thế nào, thế thôi, đành viết xuống. Những dòng dài, như điếu văn cho chú trâu tội nghiệp, những dòng dài để kết tội mình đã im lặng và những dòng dài hơn như một lời sám hối cho đám người đã “không biết việc mình làm”.
Rất nhiều người khuyên tôi bỏ viết, tôi vẫn viết. Cũng nhiều người bảo tôi đừng viết như thế này nữa, tôi vẫn viết theo ý mình. Có lẽ viết đã trở thành công việc của riêng tôi. Một trách nhiệm khó rũ bỏ chăng? Tôi cũng quên mình bắt đầu viết từ bao giờ. Rõ ràng không từ việc đọc quá nhiều sách hay từng học ở nơi có liên quan đến văn chương (thời gian đấy, viết với tôi chỉ là sự trả bài, tôi không quan trọng, chẳng quan tâm cho đến khi rời khỏi môi trường đấy). Có lẽ, hãy vứt béng sự kiểm thảo về thời gian, hoàn cảnh hay những thôi thúc dẫn dắt. Quan trọng là tôi đang cầm bút và chưa lúc nào lười biếng.
Đã không làm thì thôi, đã theo thì phải tận cùng. Trong những lúc viết, tôi luôn đặt cho mình nhiều rào cản, thách đố mình bằng việc đặt trước mặt một quân bài úp ngược rồi suy đoán về những điều sẽ xảy ra sau đấy. Nhà văn Đặng Thơ Thơ, người đọc nhiều nhất những sáng tác của tôi đã định nghĩa rằng, thể loại tôi đang viết là truyện âm. Còn dịch giả Nguyễn Hồng Nhung sau khi đọc một số truyện của tôi, đã nhận định “Nếu muốn hiểu văn phong của em, suy nghĩ của em cần biết rõ hơn thứ văn học em đọc, thứ văn hóa em bị ảnh hưởng... Tất cả những điều này có thể để thỏa mãn những người đọc em thì đúng hơn. Vì hình như em không quan tâm. Em cũng vẫn đi theo lối viết, cách suy nghĩ của em thôi, cô có thể nói chắc chắn như vậy. Cho đến bao giờ cái áo này chật đối với em. Một lối suy nghĩ đi từ dưới lên, chứ không phải đi từ trên xuống. Cứ như em là một kẻ bị chôn sống cùng những kho vàng làm thần giữ của, chẳng may một lúc nào đó em bỗng nhiên lộn vào vòng tái sinh thành người, nhưng chỉ trong thân xác.”.
Đừng bận tâm vào những gì tôi viết, hãy nói cho tôi xem bạn thấy gì sau khi đọc của tôi. Có những thứ không nói ra sẽ rất chán nhưng khi nói ra sẽ càng chán. Và nếu chẳng thấy gì làm mình hào hứng, hãy vứt sách tôi vào lửa để ít nhất nó còn có giá trị dọn dẹp lá rơi ngoài sân nhà.
Văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm hay với nhiều cách tân và giá trị nhưng có lẽ, ngay đến lúc này dù đã có nhiều sách được dịch, quảng bá khắp châu Á và một phần châu Âu, vẫn khiêm nhu. Lý do từ tầm ảnh hưởng nhiều hơn về vấn đề chuyển ngữ. Văn học Việt đã luôn và chỉ luôn biến đổi từ những nền văn hóa bên ngoài chứ chưa thực sự tác động, gây chấn sang ngược lục địa. Việt Nam thiếu nền tảng về kiến trúc thượng tầng, triết học, thần học, tôn giáo. Thiếu đi những nền móng lớn, thành ra văn học Việt Nam chỉ có hay, ít lớn, rồi khi có tác phẩm lớn thì chưa có thứ nào vỹ đại, tầm cỡ đến mức tạo thành một trào lưu toàn cầu hóa.
Tôi không có nhiều thầy và chẳng có mấy ai thực sự là thầy của mình. Nhà văn Võ Thị Hảo là người đã phát hiện và tán thưởng những thứ khỉ gió nhưng khốn nỗi ai cũng phủ định của tôi. Cô Hảo chẳng dạy dỗ tôi nhiều, chỉ truyền lửa và chắc chắn chẳng phải thầy, theo đúng nghĩa đội lễ bái sư. Tôi cũng nghĩ rằng văn chương chẳng ai dạy được ai, càng không cần một tượng đài để suốt đời chỉ tôn thờ. Ai tự đội lên đầu một thần tượng, sẽ chẳng làm được gì. Tôi cũng thế thôi, từng một thời gian tôi rất sùng Kafka nhưng tôi vẫn ném ông ta sang một bên. Tôi chỉ nhai nuốt, hấp thụ những gì tốt nhất của người khác. Có thể khốn đốn, tức tưởi trong một lão tiên chỉ nào đấy nhưng rồi vẫn phải thoát ra, về với thế giới của mình sau khi đã học được cách ăn thịt những nỗi đau. Yukichi Fukuzawa viết trong “Khuyến học” rằng “Con người sinh ra đều bình đẳng, khác nhau là do học vấn”, mỗi người viết hãy nên là một cá thể riêng, không hơn ai và không dưới ai. Đi theo cái bóng người khác, ngoài việc luôn thụt lùi, sẽ bị chính cái bóng đấy xóa sổ. Việc đọc rồi bị ảnh hưởng đơn thuần là sự học hỏi lẫn nhau. Người thầy tốt nhất và xứng đáng nhất phải là người giúp học trò mình thức tỉnh về bản thân, cả chỗ yếu lẫn thế mạnh, đặc biệt đừng nên giới hạn ai dù bằng ranh giới gì, lịch sử, văn hóa, chính trị hay màu da… Tiếc thay, tôi thiếu quá những người thầy “sống”, đành phải tìm đến những sensei “chết” mà không chết trong thung lũng sách. Những người viết trẻ hiện nay nhiều đam mê, lắm khát vọng cùng sự cầu tiến. Khác với thế hệ cũ, những người trẻ (bao gồm cả tôi hoặc loại trừ tôi đi) không bị nhiều chấn thương tâm lý từ chiến tranh, không hề bị chia rẽ bởi ý thức hệ. Sống trong thời đại thông tin, mỗi người sẽ dễ dàng tìm đọc mọi danh tác trên thế giới. Sách luôn sẵn có, vấn đề là chịu đọc và chịu hiểu không. Người viết trẻ không bị ảnh hưởng chiến tranh và đấy cũng là chỗ thiệt thòi khi họ sẽ rỗng một khoảng lớn trong đầu, bị đứt gãy về quá khứ. Thiếu lắm những trang viết dám đào xới lịch sử để phủi hết bụi ám nghìn năm. Trong lớp viết mới, từ Hạnh Nguyên, Huỳnh Trọng Khang, Đinh Phương… tôi đặc biệt chú ý (và ghi nhớ) hai cây viết đầy tiềm năng là Pháp Hoan (thơ) và Trần Băng Khuê (truyện ngắn). Họ mới mẻ và không chịu theo khuôn khổ, có nền tảng kiến thức rộng mà không khoe mẽ, khả năng ứng dụng kiến thức vào trang viết cũng rất bản lĩnh, hay nhất là hai người chẳng e dè gì khi cầm bút viết, không có rào chắn, không lo sợ, rụt rè, viết mạnh và bén như dao róc xương rồng. Thơ Pháp Hoan trong trẻo, chứa nhựa trầm mặc nhưng cũng đầy đau đáu, vết thương nhân sinh. Những sáng tác của Trần Băng Khuê mạnh về ngôn ngữ, các dòng chữ chảy xõa, lâu lâu lại thấy kẹt các miểng băng, khả năng sử dụng ẩn ngôn, phân tích những vấn đề nghiêm trọng từ dấu vết cực tiểu. Tất nhiên, đấy chỉ là những nhận xét cá nhân, đầy chủ quan và sơ hở của tôi. Nhưng hãy cứ thế, lớp trẻ phải mạnh bạo, đừng ngại bóp phanh khi thấy vực thẳm.
Truyện ngắn không hoàn toàn là thể loại tôi quá ưu ái. Hiện giờ tôi sẵn sàng cho một truyện dài hoặc tiểu thuyết, nên cứ tạm viết truyện ngắn. Thực sự thì tôi vẫn thường viết nối tiếp nhau qua từng truyện. Ví dụ, về chủ đề tóc, tôi có thể viết nhiều truyện khác có liên quan đến mái tóc, nhưng trong một chừng mực khác, có móc xích hoặc không với truyện đầu tiên. Tôi không phải người siêng đọc, cũng chẳng chọn lọc hay theo một hệ thống từ kinh điển đến hiện đại. Tôi đọc ngẫu nhiên, hễ thấy dòng viết này chảy vào mình là đọc, lắm lúc tôi còn nhắm mắt, vớ đại một cuốn trên tủ hay trong thư viện. Thời gian này, tôi đọc “Giải Phẫu Tự Ngã” của Takeo Doi, và phải ngừng lại trước khi đọc lần hai. Khi xong xuôi, có lẽ tôi sẽ chấp bút.
Đời tôi, nếu không phải cái mình nghĩ thì là cái mình viết, nếu không phải cái mình viết thì là cái người khác viết. Chẳng có gì đáng băn khoăn ngoài một thế giới luôn mong mỏi đánh thứ, từ một cá thể bệnh tật và bệnh hoạn, viết tên Tru Sa.
T.S
(TCSH335/01-2017)
NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.
THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.
HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.
PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.
MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.
TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.
ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…
ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.
LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.
INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)
HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...” Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?
HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.
INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?
VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!