Vi Thuỳ Linh - một thế giới không thể ngừng

11:00 06/05/2009
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

Nhà thơ Vi Thùy Linh

Nếu đi sâu vào đặc điểm thể loại, thì tôi chuộng thơ tự do, vì tôi thấy mình ở đó và khi viết nó, nó là tôi. Các câu thơ giống như hơi thở: hơi thở dài buồn bã, hơi thở yếu lúc đau ốm; hơi thở nồng nàn lúc mơ ngủ; hơi thở gấp của cuộc chạy, của sự hồi hộp; của giao linh... cũng khác nhau. Thơ tự do cho phép tôi bộc lộ cảm xúc một cách nguyên bản nhất; khác với các thể thơ khác, bị quy phạm bởi số âm tiết trong một dòng, bắt vần giữa các câu và số câu trong một bài...Nhiều khi để đảm bảo đúng niêm luật, người viết phải tập trung “nghĩ bằng được” âm tiết dưới trùng với âm tiết trên (có lúc “ép vần” một cách gượng gạo và giả dối) thay vì tập trung sáng tạo ngôn ngữ và hình tượng.

Điều gì thúc đẩy cô viết?
- Tâm hồn và cơ thể tôi.
Một thúc bách bức bối và cuồng nộ làm tôi không kìm giữ được mình. Những dòng nhiệt lưu trong cơ thể cuốn tôi trong vũ bão hiện thực và giấc mơ hoang đường. Tôi viết bằng sự xung động ấy, ngay lập tức, nhưng chỉ khi không “đừng” được (tôi không ép mình bao giờ). Còn để tác phẩm ấy không đơn thuần là “nhật ký”, mà là tác phẩm nghệ thuật, thì sau “cơn bùng nổ” ấy, lắng xuống một chút, tôi "vuốt” lại câu chữ và hình ảnh. Tất nhiên, bởi nghệ thuật là sáng tạo, tôi không thích sự cũ kỹ và dễ dãi.

Cô có thể mô tả ngắn gọn cuộc sống của mình?
- Tôi không rõ ý ông muốn hỏi cuộc sống từ quá khứ đến hiện tại hay chỉ hiện tại? Nếu chỉ hỏi hiện tại, thì đó là một cuộc sống thiếu bình yên và che chở. Tôi tự lực làm tất cả, kể cả việc an ủi và che chở cho mình bằng tấm thân gầy mảnh và tâm hồn quá nhạy cảm. Nhưng ngay cả khi suy sụp nhất, tôi cũng chưa bao giờ cho phép mình sống yếu hèn, nhượng bộ và từ bỏ khát vọng.

Cô thích sự nổi tiếng?
- Nếu nghệ sĩ nào nói rằng: “Tôi xem thường sự nổi tiếng”, đó là nói dối. Và tôi luôn nói thật. Nhưng động lực khi tôi cầm bút sáng tác, thì không phải là sự nổi tiếng, mà là đam mê. Tôi chìm đắm và bứt phá thi ca bằng tưởng tượng, để thoả mãn chính tôi và tôi tin, thơ của tôi có đời sống, vì nó sinh ra từ đời sống đầy bất trắc và mơ mộng mà nhiều người có thể chia sẻ và tìm thấy mình ở đó. Và đương nhiên, khi những con người yếu đuối và mạnh mẽ cần sự chia sẻ, tức là tôi và tác phẩm của tôi được biết đến nhiều. người ta gọi đó là sự nổi tiếng.

Điều gì sẽ xảy ra nếu cô không viết và cô không phải là người nổi tiếng?
- Nếu tôi không viết, tôi không phải là tôi. Viết, đó là một định mệnh.
Nếu dấn thân vào nghệ thuật mà những sáng tạo và người sáng tạo vô danh, thì đó là sự bất tài. Mà khi bất tài thì không nên theo đuổi nghệ thuật. Đi bán cá, có khi lại có ích hơn.

Người ta bảo cô “gấu”, cô thấy thế nào?
- Nếu được là gấu ngủ ngon lành yên ổn suốt mùa đông, thì quá tuyệt. Nhưng tôi rất sợ lạnh và sợ mùa đông, tôi lại khó ngủ và ít ngủ, vì phải đọc sách và phải làm việc hàng đêm.
Còn “gấu tướng” ư, không, tôi là người quả quyết và mạnh mẽ, thậm chí liều lĩnh. Ông không cảm nhận được “đàn bà tính” trong tôi quá nhiều sao? Tôi nghĩ người ta có thể cảm thấy tôi như thế, qua thi ca. Tác phẩm là một phản ánh trung thực.

Cô đã làm thơ, viết báo, cô có ý định viết văn không?
- Không phải là ý định, mà là “đã”. Tuy nhiên, thời gian qua, tôi chỉ tập trung cho thơ ca, vì tôi không muốn cùng một lúc, trước mặt là bốn tờ giấy để tuỳ hứng: lúc làm thơ, khi viết truyện, lúc viết tiểu thuyết, khi viết báo, thậm chí cả viết tiểu luận và tuỳ bút! Tôi sẽ thử sức mình ở tất cả các thể loại trên, nhưng có sự phân bố thời gian. Tôi đang nạp vốn sống để 25 tuổi có thể viết tiểu thuyết. Tôi sẽ đi thẳng tới tiểu thuyết mà “bỏ qua” truyện ngắn, có thể xong tiểu thuyết, tôi sẽ quay lại truyện ngắn và thơ. Tất nhiên, mỗi người, có sở trường của riêng mình. Người ta bảo, văn hào khó làm thơ hay. Nhưng tôi thấy thơ V.Hugo và thơ Lưu Quang Vũ rất hay và mới. Tôi muốn mình đạt được điều đó như họ, ở nhiều lãnh vực. Tôi liên tục nỗ lực.

Người ta bảo rằng văn chương cứu rỗi cái đẹp. Tôi thì cho rằng văn chương chẳng cứu rỗi cái gì, ngoài chính nó. Cô đồng ý không?
- Không.
Văn chương đích thực cứu rỗi nhân loại, bởi nó thức tỉnh và hướng tới con người, trong đó, đáng nói nhất, nó cứu rỗi và tôn vinh cái đẹp. Trước đó, nó cứu rỗi chính nó và nhà văn.

Người ta cũng bảo, thời gian sẽ xoá nhoà tất cả. Cô có cho rằng có một cái gì đấy vĩnh cửu?
- Tình yêu.
Khi tôi yêu một người đàn ông vĩ đại thực sự, tôi thấy yêu biết bao cuộc sống này và từng giây sống của tôi, bừng lên khao khát sống đẹp, sống lâu để yêu và viết. Nhưng ai cũng phải chết. Và tôi vẫn mong rằng khi con người sinh học của tôi chết đi, tác phẩm của tôi vẫn sống. Tác phẩm ấy, chính là tôi, với tình yêu. Sự sống bao bọc tình yêu với nghệ thuật và người đàn ông vĩ đại của mình. Đó là tình yêu vĩnh cửu.

Trong thơ cô, người ta có thể thấy những khát vọng. Cô đã hạnh phúc?
- Vâng, tôi đang yêu. Vì tình yêu.

Có lẽ ít ai còn trẻ mà nhiều “dư luận” như cô. Cô định nghĩa thế nào là “dư luận”?
- “Dư luận” là những lời nói thừa.
Ở Việt Nam, thiếu trầm trọng các nhà phê bình ở tất cả các loại hình nghệ thuật. Sự phát triển chậm về kinh tế và văn hoá dẫn đến việc tiếp nhận nghệ thuật chậm với cái mới, độc đáo. Người ta chỉ quen với những cái đang quen và dị ứng với những cái khác lạ. Và vẫn còn một số đông xem phim, kịch... qua báo; nghe nhạc qua tai... người khác; đọc sách qua lời đàm tiếu và đánh giá một người nào đó qua lời đồn. “Dư luận’ nảy sinh từ một “hiện trường” như thế, không đáng nửa xu! Tôi sống và viết vì đời sống giá trị thật sự, chứ không vì “đời sống dư luận” kiểu đó.

Dường như ở nơi cô, không có khái niệm về sự im lặng?

- Đúng, tôi nói cả trong lúc ngủ. Thậm chí, sau khi chết.
Tôi không thích sự im lặng theo nghĩa "im lặng” mà người ta vẫn hiểu. “Sự im lặng vua chúa" thì khác. Nó là kiêu hãnh, là đỉnh cao của âm thanh. Tôi thích sự im lặng đầy mãnh liệt. Và tôi nói trong lúc ngủ, cả sau khi chết, tiếng nói ấy không phải là âm thanh cơ học phát ra từ sự chuyển động của khẩu hình, mà là tiếng nói của năng lực, tâm hồn và cốt cách, tiếng nói của tác phẩm.

Có người coi cái điện thoại là một sợi “dây xích”. Nhưng với cô thì dường như cái phương tiện thông tin hiện đại này vẫn chưa đủ để người ta trói nhau?
- Ông muốn nói đến tình yêu? Bản chất của tình yêu đích thực, theo tôi là sự “thuộc về”, “chiếm hữu và độc hữu”. Một tình yêu như thế làm cho thế giới trở nên không ngừng và vĩ đại. Thế giới nảy nở và bất trắc, cũng vì những ý muốn chiếm hữu ấy. Tôi thích thế, nếu sự chiếm hữu ấy là của tình yêu lứa đôi.

NGUYỄN VỊNH
(168/02-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.