Về việc thiết lập hệ thống “Báu vật nhân văn sống” ở Việt Nam

15:33 16/07/2008
PHAN THUẬN THẢO1. Từ quan điểm về hệ thống “Báu vật nhân văn sống” của UNESCO...

Về khái niệm “Báu vật nhân văn sống”, UNESCO đã có định nghĩa như sau: “Báu vật nhân văn sống” là những người có kiến thức và kỹ thuật ở cấp độ rất cao, cần thiết cho việc biểu diễn hay sáng tạo các yếu tố của di sản văn hoá phi vật thể mà các quốc gia thành viên (của UNESCO) đã lựa chọn như một bằng chứng cho truyền thống văn hoá sống của mình và cho tinh thần sáng tạo của các nhóm, các cộng đồng và các cá nhân hiện diện trên đất nước mình” (1).
Việc tôn vinh các nghệ nhân bằng cách thiết lập hệ thống “Báu vật nhân văn sống” đã được Nhật Bản thực hiện đầu tiên vào những năm 1950, sau đó là Hàn Quốc, đầu thập niên 1960. Các nước khác như Philippin, Thái Lan, Rumani, Pháp, Cộng hoà Séc, Bulgari cũng đã xây dựng hệ thống của họ. Tổ chức UNESCO thuộc Liên Hiệp Quốc cũng đã thể hiện sự quan tâm đến vấn đề này qua việc tổ chức các cuộc hội thảo với đề tài “Hệ thống Báu vật nhân văn sống” tại Hàn Quốc vào các năm 1998, 1999, từ đó, khuyến khích các nước thành viên thiết lập hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” của nước mình.
Vì văn hoá phi vật thể không tồn tại dưới dạng vật chất và chủ yếu được truyền thừa qua con đường truyền khẩu, nên nghệ nhân - người nắm giữ nội dung của văn hoá phi vật thể - là rất quan trọng. Có thể nói đây là một trong những yếu tố quan trọng  nhất của sự tồn tại và phát triển loại hình văn hoá phi vật thể. Do đó, UNESCO đã khuyến khích phát triển hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” với mục tiêu bảo tồn các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho trình diễn và sáng tạo các loại hình văn hóa phi vật thể có giá trị tiêu biểu. Để thực hiện được điều này, các nghệ nhân cần được tôn vinh và hỗ trợ để họ có điều kiện duy trì và phát triển kỹ năng và kiến thức, đồng thời có thể truyền dạy lại các kỹ năng và kiến thức này cho các thế hệ tiếp nối.
Theo quan điểm của UNESCO, việc thiết lập hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” không nhất thiết phải rập khuôn theo một qui chuẩn cứng nhắc nào. Cách thức quản lý cũng phải phù hợp với tình hình và đặc điểm của mỗi nước. Nói cách khác, mỗi địa phương không nên bị ảnh hưởng quá nhiều bởi các hệ thống đã được thực hiện ở những nơi khác mà phải xây dựng một hệ thống riêng, phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương mình. Hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” cũng không nhất thiết phải được áp dụng trên phạm vi toàn quốc mà có thể giới hạn ở một tỉnh, một địa phương nào đó sở hữu nhiều loại hình văn hóa phi vật thể phong phú, có giá trị đặc biệt cần bảo vệ. Đối tượng được công nhận cũng đa dạng, đó có thể là một cá nhân hay một nhóm người nắm giữ các bí quyết nghề nghiệp.
Trong qui trình thiết lập hệ thống “Báu vật Nhân văn sống”, cần phải thành lập một Hội đồng chuyên gia với các nhiệm vụ quan trọng: điều tra, đánh giá, đề cử các loại hình di sản phi vật thể tiêu biểu, đề cử các cá nhân hay nhóm có khả năng được lựa chọn. Sau khi việc công nhận diễn ra, Hội đồng này có nhiệm vụ theo dõi các “Báu vật Nhân văn sống” đã được công nhận, và có thể đề xuất hủy bỏ sự công nhận này khi nghệ nhân không thực hiện nhiệm vụ của mình hay không đáp ứng được các tiêu chí mà họ từng được công nhận.
Các tiêu chí để được đề cử công nhận là “Báu vật Nhân văn sống” đã được UNESCO đề ra gồm có:
- Xuất sắc trong việc áp dụng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp.
- Sự tận tụy cống hiến.
- Khả năng phát triển hơn nữa kiến thức và kỹ năng đã có.
- Khả năng truyền dạy kỹ năng và kiến thức cho người học.
Sau khi được công nhận, các nghệ nhân được hưởng một chế độ ưu đãi và tôn vinh của nhà nước nhằm duy trì và phát triển nghệ thuật của mình. Bên cạnh đó, họ có nhiệm vụ đào tạo ra đội ngũ nghệ nhân kế cận, hợp tác để làm tư liệu, thường xuyên biểu diễn để phổ biến nghệ thuật của mình đến với công chúng, và để phát triển hơn nữa tri thức và kỹ năng của mình.
2. ...đến việc thiết lập hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” ở Việt Nam:
Ở Việt Nam lâu nay đã có một số danh hiệu công nhận nghệ nhân, nghệ sĩ biểu diễn nghệ thuật hay các ngành nghề thủ công truyền thống. Chẳng hạn các danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú dành cho các nghệ sĩ biểu diễn nghệ thuật chủ yếu trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Việc Nhà nước tôn vinh nghệ nhân cũng đã được đề cập đến trong Điều 26 chương III của Luật Di sản Văn hoá, trong đó ghi rõ: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt”(2).
Ngoài ra, một số các bộ, ngành, địa phương cũng đã có những qui chế, văn bản chính thức công nhận và tôn vinh nghệ nhân với các danh hiệu như Nghệ nhân Hà Nội (UBND TP Hà Nội, 2/10/2003), Nghệ nhân Nhân dânNghệ nhân Ưu tú (Bộ Công Nghiệp, 11/01/2007), danh hiệu Nghệ nhân (Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Bộ Lao động – Thương Binh & Xã hội, Bộ Văn hoá Thông tin, 30/5/2002). Tuy nhiên, các danh hiệu nêu trên chỉ áp dụng cho các nghệ nhân thuộc các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống mà không bao gồm lãnh vực biểu diễn nghệ thuật.
Vào năm 2003, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam đã công nhận đợt I danh hiệu Nghệ nhân Dân gian cho 15 người, trong đó có có 5 nghệ nhân ở Huế thuộc các lãnh vực nghệ thuật và thủ công truyền thống. Do hạn chế về kinh phí của một hội nghề nghiệp, phần thưởng về vật chất dành cho các nghệ nhân được phong tặng còn hạn chế (500.000 đồng/người), song đó là một việc làm rất có ý nghĩa về mặt tinh thần đối với nghệ nhân và gia đình họ.
Ở một số địa phương, tài năng của nghệ nhân vẫn thường được công nhận và phát huy. Đơn cử một ví dụ ở Huế, kể từ khi bắt đầu thực hiện phục hồi Nhã nhạc cho đến nay, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã liên tục mời các nghệ nhân đến cộng tác và trả lương xứng đáng cho sự hợp tác của họ. Nhờ thế, công cuộc phục hồi, bảo tồn và phát huy Nhã nhạc đã tiến triển không ngừng và được thăng hoa khi Nhã nhạc được UNESCO công nhận là “Kiệt tác Di sản Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại” vào năm 2003. Đến nay, Trung tâm vẫn có chế độ dành cho một số nghệ nhân với mức 1.500.000 đồng/tháng, vừa đủ đối với mức sống bình thường ở Huế (chưa kể các khoản tiền thưởng lễ, Tết). Như thế, các nghệ nhân này không cần phải lo kế sinh nhai, họ lại có môi trường tốt để từ nay đến cuối đời truyền nghề cho các thế hệ tương lai.
Như thế, chúng ta đã có một số hệ thống công nhận và tôn vinh nghệ nhân. Tuy vậy, những hệ thống này nhìn chung còn thiếu tính tổng thể và toàn diện. Chính sách đối với nghệ nhân chưa đầy đủ và do vậy, tác động bảo vệ di sản chưa đạt kết quả mong muốn. Do đó, để phát huy tốt hơn nữa vai trò của nghệ nhân trong việc bảo tồn các giá trị văn hoá phi vật thể truyền thống, vừa qua, Cục Di sản Văn hoá thuộc Bộ Văn hoá - Thể thao & Du lịch đã triển khai Dự án thí điểm “Thiết lập hệ thống Báu vật Nhân văn sống ở Việt Nam” với kinh phí tài trợ của Tổng Cục Di sản Văn hoá Hàn Quốc là 40.000 USD. Dự án được triển khai trong vòng một năm (2007) với mục tiêu là nghiên cứu thí điểm trường hợp nghệ nhân Nhã nhạc và Cồng Chiêng để qua đó, nêu đề xuất về việc thiết lập hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” tại Việt Nam, một hệ thống mang tính nhà nước có tính pháp lý cao. Khi được hỏi về các hoạt động và kết quả của Dự án, bà Nguyễn Thị Thu Hương, cán bộ của Cục Di sản Văn hoá cho biết dự án này chỉ thực hiện những hoạt động khởi đầu hướng tới việc thiết lập hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” ở Việt Nam. Một trong những kết quả đạt được là thành lập bản Dự thảo về hệ thống này để gửi đi xin ý kiến đóng góp của cộng đồng (nghệ nhân, nhà nghiên cứu,…) (3). Như vậy, “đầu ra” của Dự án chưa phải là hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” được thiết lập, mà nó chỉ tạo cơ sở đầu tiên cho nhiều hoạt động tiếp theo, liên quan tới nhiều bộ, ngành, cơ quan và cả các cá nhân. Để có được hệ thống này, còn phải đầu tư rất nhiều thời gian, công sức mà hiện nay chúng ta chỉ mới thực hiện những bước khởi thảo đầu tiên.
Trong cuộc Hội nghị Tổng kết Dự án thí điểm “Thiết lập Hệ thống Báu vật Nhân văn sống tại Việt Nam” tổ chức vào ngày 28/1 tại Hà Nội, Bà Lê Thị Minh Lý, Phó Cục trưởng Cục Di sản Văn hoá đã đề xuất hai phương án cho những hoạt động tiếp theo:
- Phương án 1: mở rộng phạm vi và đối tượng từ những danh hiệu đã có như Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú...
- Phương án 2: thiết lập một danh hiệu mới để công nhận nghệ nhân cấp quốc gia.
Cả hai phương án trên đều có những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện, đòi hỏi phải có sự quan tâm, chỉ đạo của Nhà nước và sự tham gia ý kiến của cộng đồng để công việc được tiến hành một cách nhanh chóng, thuận lợi và hiệu quả nhất.
Việc thiết lập hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” ở Việt Nam là một  việc làm phức tạp và lâu dài. Chúng tôi cho rằng mục tiêu cuối cùng của việc làm này là bảo tồn và phát huy văn hoá phi vật thể truyền thống thông qua bảo tồn các kỹ năng, kiến thức của các nghệ nhân. Cho nên, cần chú ý đến việc phát huy vai trò của nghệ nhân sau khi được công nhận. Cần tránh trường hợp nghệ nhân được trao bằng, khen ngợi, tặng thưởng xong rồi… để đó. Sau những hào quang của ngày lễ tuyên dương, nghệ nhân lại trở về lặng lẽ với những công việc thường ngày của mình. Sản phẩm của họ không vì thế mà bán chạy hơn, kỹ năng nghề nghiệp của nghệ nhân không vì thế mà phát triển hơn, cộng đồng không vì thế mà quan tâm nhiều hơn đến ngành nghề mà họ đang nắm giữ. Vì vậy, sau khi công nhận, cần phải tổ chức các hoạt động thường xuyên để nghệ nhân tham gia sáng tạo nhằm phát triển kỹ năng của họ và nâng cao vị thế của ngành nghề trong xã hội. Có như thế, hệ thống “Báu vật Nhân văn sống” mới hoàn thành tốt mục tiêu bảo tồn và phát huy di sản văn hoá phi vật thể mà chúng ta đang quan tâm.
P.T.T

(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)

-------------
(1) UNESCO, “Guilines for the Establishment of National “Living Human Treasure” systems (Hướng dẫn Thiết lập Hệ thống “Báu vật nhân văn sống” cấp quốc gia)”, Bảo tồn và Phát huy Di sản Văn hoá Phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn Hoá Thông tin, Hà Nội, 2007, tr.398.
(2) Quốc Hội nước CH XHCN Việt Nam,
Luật Di sản Văn hoá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr 16.
(3) Phỏng vấn bà Nguyễn Thị Thu Hương tại Huế ngày 15/1/2008.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN QUYẾNTrong quá trình đi điền dã thu thập tư liệu Hán Nôm ở huyện Phú Lộc Thừa Thiên Huế, chúng tôi đã được tiếp cận hai đạo sắc phong cho người có công trị thủy ở từ đường dòng họ Lê Kim, thôn Đông, làng Bàn Môn, xã Lộc An.

  • PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.

  • LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT

  • HUỲNH ĐÌNH KẾT

    Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.

  • LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…

  • NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...

  • HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.

  • BEATRICE KALDUN         (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.

  • PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.

  • PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN MỄ                    (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.

  • LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.

  • NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.

  • PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.

  • PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...