Về thơ trẻ hiện nay

14:25 13/05/2011
AN-ĐRÂY ĐÊ-MEN-CHI-ÉP(Phát biểu của nhà thơ An-đrây Đê-men-chi-ép - Tổng biên tập Tạp chí “Tuổi trẻ” trong cuộc hội thảo về thơ nhân Đại hội các nhà văn trẻ Liên Xô lần thứ VIII.)

Nhà thơ Andrey Dementiev

Nếu xét đoán tình trạng ứ đọng của các tập thơ tại các hiệu sách thì có thể rút ra kết luận rằng, thơ của chúng ta đang rơi vào khủng hoảng. Nhưng tất cả đều có tính tương đối, bởi vì một loại sách này không thể mua được thì loại kia cũng không thể bán được. Vấn đề lại chính là thơ ra làm sao? Và câu chuyện bây giờ đúng là thơ trẻ tồn tại như thế nào? Tôi nói - tồn tại, bởi vì nhiều người trong số các nhà thơ trẻ được dựng lên và được xuất bản là không thể và không cần tồn tại.

Trong những năm gần đây, tôi cảm thấy rằng chúng ta quá lý thuyết hóa thơ trẻ. Những cuộc trao đổi của chúng ta về thơ trẻ gợi tôi nhớ đến chiều dài bất tận của loại bít-tất ống cao mà chúng ta cùng đan với những chiếc kim đan quen tay được giả định trong cùng một tiến độ. Và để dễ được việc, chúng ta cố sắp chúng theo hàng ngang. Những thế hệ hàng ngang - có vẻ như là một thế hệ, điều đó không hề là một cái gì trung tính, ngưng đọng, ăn cánh. Có thể các nhà phê bình không ủng hộ tôi, nhưng dù sao tôi vẫn nói rằng đằng sau khái niệm “thế hệ” thường khi chúng ta đã che lấp đi những thiếu sót riêng và những số phận cá nhân của những nhà thơ trẻ. Nhưng ai cũng biết rằng trong nghệ thuật nhân cách quyết định tất cả. Thế hệ trận mạc gọi như thế trước hết là ở nét chung của số phận đã xác định nên có tính sáng tạo, chứ không hề là sự trùng hợp tình cờ các lứa tuổi.

Chi-út-tsép trẻ hơn Puskin bốn tuổi, tức là cả hai đều cùng một thế hệ. Nhưng không ai nghĩ đến việc tập hợp một cách cố định họ trong cùng một khái niệm thế hệ, kể cả những người cùng tuổi nổi tiếng khác. Đấy là những tên tuổi - Puskin, Ba-ra-tưn-xki, Chi-út-tsép … Những tên tuổi!

Đáng tiếc thơ trẻ hôm nay còn ít tên mà nhiều họ. Thế mà chúng ta lại ghép họ lại trong một băng đạn, một binh đội, che họ dưới một “mái nhà”, “xếp lớp” một cách giả tạo những nhà thơ trẻ lứa tuổi khác nhau, đôi khi cách nhau đến 10 tuổi. Ngay cả cuộc tranh cãi về tính phức hợp và giản dị của sự tự biểu hiện nghệ thuật, theo tôi, trong điều kiện của thế giới hôm nay, khi con người không xích lại trong cuộc sống, mà cho đến chết vẫn còn là hai lực lượng đối kháng - lực lượng của lòng tốt và chủ nghĩa nhân đạo với lực lượng của tàn bạo và ngu dân, thì sự tranh cãi như thế, tôi nhắc lại, là xa rời với nhiệm vụ chính yếu của thời đại. Có ai đó trong các bậc vĩ nhân đã nói rằng vật chất tồn tại phức hợp còn tư duy về vật chất cần phải giản dị. Nhưng sự phức hợp thi ca đó là sự tổng hợp thẩm mỹ những phẩm chất tinh thần của người sáng tạo, trước hết đó chính là sự biểu hiện của nhân cách, chứ không phải là sự bộc lộ khả năng thích ứng với thời điểm. Đáng tiếc, trong nhiều người được gọi là thơ ca thức hợp lại không thấy rõ mặt nhân cách. Khi đó sự thuyết lý, sự đàm luận khó hiểu về những lẽ thường tình sẽ giống như trò chơi “cờ vua bị buộc đánh theo kiểu cờ nhảy”.

Khoa học khi thâm nhập vào những vấn đề của thi ca đã không dự đoán được những phương pháp nhận thức thế giới và cuộc sống của nó đã lan tới những ẩn dụ một cách máy móc. Tôi đọc những bài thơ tài tử khó hiểu về vũ trụ làm gì khi tôi có thể đọc được điều đó trong khoa học hay tệ ra trong các tài liệu phổ thông? Không ít khi những toan tính chân thành của nhà thơ trẻ mong muốn đi kịp bước đi thời đại đã giết chết sự khởi đầu sáng tạo trong họ, bởi vì tầm vóc nhỏ bé của nhân cách họ không nhào trộn được “chất liệu”. Và khi đó hình tượng nghệ thuật, lẽ ra phải là pháo sáng soi chiếu con đường đi tới cái bản chất, thì lại trở thành bảng chỉ đường mà trên đó thật khó nhận ra được một cái gì trong bóng tối của ngôi nhà thi ca.

Một nhà thơ phát biểu giản dị hay phức tạp về những gì anh ta có trong tâm hồn, đối với tôi, trong tư cách người đọc đằng nào cũng được. Vâng có lẽ là tôi đã không nhận ra (tất nhiên, nếu đó không phải là một xê-mi-na thơ, nơi cần nhận rõ tất cả mọi điều ở người làm thơ trẻ), tôi đã không nhận ra cái điều, bằng con đường nào - phức hợp hay giản dị - nhà thơ có khả năng làm tôi xúc động với tai họa, nỗi khao khát, niềm vui của mình, những điều mà sau khi gặp gỡ với nhà thơ cũng trở thành của chính tôi. Vâng, dĩ nhiên, chúng ta không cắt đứt giữa việc nói cái gì với nói như thế nào trong thơ. Nhưng từ bao đời mặt thứ hai cũng được hiểu ngầm là các giải pháp thi ca, khám phá nghệ thuật và đương nhiên, là tài năng thơ, chứ không tách ra khỏi nguyện vọng. Vào bất cứ thời buổi nào cũng có một lần vang lên câu nói “Ê ông vua này ở truồng!”, câu nói mà đôi khi chúng ta ngại nhớ đến, dù đối với ai đó việc “ở truồng” tuyệt nhiên không đáng xấu hổ, bởi vì họ đang tuổi nằm nôi, nhưng với cái nhìn nghiêm túc chúng ta cần xem xét cái tã lót thi ca, thì dường như ở đấy chẳng hề có một cái gì đặc sắc được phác họa. Cái kém cỏi cũng đã trở nên bình thường đối với các nhà phê bình, còn đối với những bài thơ khó hiểu thì người ta thốt lên những câu nói thiêng liêng: “Có thể tiếp cận với tác phẩm ấy theo một cách nào đó”. Và sự thâm thúy còn đi xa tới chỗ dường như chính là ở cái nhìn kỳ quặc, là sự khác thường trong biểu hiện v.v… Tôi cho rằng muốn có được một sức mạnh đầy đủ, cần phải đưa trí tuệ và tâm hồn vào các công trình thơ ca mà chúng ta đang đề cập. Nhưng với một điều kiện: tất cả đều phải cân bằng cả trí tuệ và tâm hồn, ngay cả tác giả cũng như vậy. Thế mà không ít khi thơ trẻ giống như sự hứa hẹn hay ho của một mạch vàng mà đi vào kiểm tra thì hóa ra chỉ là đất đá trống rỗng.

Độc giả thân mến, có khi nào đó bạn đã thử kể lại một bài thơ không? Có lẽ cũng là điều cần thiết đấy. Bạn hãy chú ý - bạn không thể kể lại nhạc điệu của bài thơ, cảm xúc của bài thơ. Nhưng ý tưởng thi ca thì luôn luôn có thể kể lại được. Pôn Va-lê-ri đã nhận ra điều đó rất chính xác: “Ý tưởng thi ca phải làm sao để về sau có thể kể lại bằng văn xuôi, nó còn làm rạng rỡ bài thơ hơn nhiều”. Còn nếu không có cái gì để kể lại?...

Thời đại không đòi hỏi ở một nhà thơ trẻ một sự cố tình phức tạp hóa, mà đi sâu vào cội rễ sự vật, chỉ bằng sức mạnh đó mới trang bị cho con người những vũ khí tri thức hiện đại. Nhưng đi sâu vào bản chất sự vật, tiến vào đáy sâu vũ trụ cũng chỉ mới phần nửa công việc. Cần phải tìm thấy những sức mạnh nâng đỡ tâm hồn người đọc, nói một cách có hình ảnh, phải tỏa sáng sức nặng tâm hồn mình, để chúng ta có thể nhìn thấy và đánh giá nó. Đánh giá…

Ai đó từng nói rất hay về bản chất sáng tạo: “Tôi đào đường hầm từ hai phía. Nếu tôi không phạm sai sót - con đường sẽ nối lại”. Thế mà để đào được từ hai phía tuổi trẻ thường lại không đủ kỹ năng.

N.K.Đ dịch
(15/10-85)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.