Về một xu hướng thơ Việt hải ngoại: thơ tân hình thức

09:19 24/07/2009
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

Nhà phê bình Đặng Tiến - Ảnh: xaluan.com

Thơ Tân Hình Thức có những đặc tính sau đây:
- Thơ không vần, nhịp điệu hoàn toàn khác với thơ cổ điển, nhưng được trình bày trên trang giấy như một bài thơ truyền thống : nhìn vào thì nhận ra ngay là thơ.

- Mỗi dòng như thơ cổ điển, gồm 5,6, thường là 7, 8 chữ (âm), có khi là lục bát, có thể xếp thành khổ 4 (hay nhiều) dòng. Cứ đến số chữ quy định là xuống dòng, không cần tôn trọng cú pháp, ý nghĩa của câu nói. Từ khổ trên xuống khổ dưới cũng vậy, và cứ vậy tiếp tục. Khi có, khi không chấm câu.

- Để xâu kết câu nói, các tác giả thường kể chuyện, chuyện nọ xọ chuyện kia, khi có khi không mạch lạc.

- Từ vựng đời thường, thông tục, có khi tục, của người bình thường sử dụng hằng ngày, trong sinh hoạt cụ thể. Không có mỹ từ pháp cổ điển như ẩn dụ, hoán dụ, biền ngẫu, nhưng có luyến láy để tạo nhịp cho câu nói.

Các tác giả tỏ ra hãnh diện về điều này, là đưa cuộc sống vào thơ, làm sống chất thơ trong cuộc sống, như vậy là cách tân, thậm chí là cách mạng. “Nếu không mang được những câu nói thông thường vào thơ thì làm sao mang được đời sống vào thơ? Và nếu không thì làm sao chia sẻ được nỗi vui buồn của mọi tầng lớp xã hội, để thơ trở thành tiếng nói của thời đại?”(1)

Trong chừng mực nào đó, họ có lý. Thơ tân hình thức là một loại ca dao tân thời, không phải thứ ca dao đã trở thành văn học được chọn lọc và giảng dạy ở nhà trường qua lăng kính thẩm mỹ trí thức, mà câu ca dao do người dân quê phát biểu trong đời sống, để sống đời sống hằng ngày. Ví dụ câu ru em này có hai thoại:

Thoại A, gần với thơ Tân Hình Thức:
Hai tay cầm bốn tao nôi
Tao mô thẳng thì thôi
Tao mô dùi thì sửa lại cho cân


Thoại B, gần với thơ truyền thống:
Hai tay cầm bốn tao nôi
Tao thẳng, tao dùi, tao nhớ, tao thương


Thơ Nôm Nguyễn Khuyến:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa
Phần thuế quan thu, phần trả nợ
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.


Đây là một bài thơ đường luật chỉnh chu, thậm chí là sắc sảo trong lề lối của nó. Nhưng đặt ra ngoài niêm luật, thì nó rất “tân hình thức”, trong lý tưởng thâm trầm nhất: đưa lời thường và đời thường vào thơ. Cụ Tam Nguyên mà sống vào thời này tí toáy nghịch thơ Tân Hình Thức, e các cụ Đỗ Kh., Nguyễn Đăng Thường phải sĩ khí rụt rè, và cụ Khế Iêm khỏi bỏ công viết cả mấy trăm trang dài thoòng biện hộ cho “hiệu ứng cánh bướm”.(2)

Ngoài ra, theo tôi, người làm thơ Tân Hình Thức đầu tiên là Nguyễn Văn Vĩnh, khi năm 1914 ông hạ bút viết câu ‘Ve sầu kêu ve ve’, là tân hình thức hết nấc.
Ngược lại, câu vè dân gian: Nghe vẻ nghe ve /Nghe vè đánh bạc /Đầu hôm xao xác lại là một câu vần vè cổ điển, gần với thi ca truyền thống.

Nguyễn Văn Vĩnh tiết lộ: trước khi dịch bài ngụ ngôn của La Fontaine, Con Ve và Con Kiến, ông chưa hề làm thơ, nghĩa là chưa tập tành. Câu ve sầu kêu ve ve có lẽ đến tự nhiên, theo ý câu tiếng Pháp, ông Vĩnh không có ý đồ cách tân, tham vọng văn học gì. Nhưng vô hình trung, ông đã thay đổi tương quan giữa thơ và cuộc sống, và bẻ một bước ngoặt trong tâm thức văn học Việt Nam, dù rằng, trong thực tế câu thơ ấy không mấy ảnh hưởng vào văn học. Các nhà thơ sau này mới có ý thức và dụng công cách tân rõ rệt hơn.

Kỹ thuật vắt dòng, hay bắc cầu (enjambement) thường gặp trong Thơ Mới, là một kinh nghiệm tiếp thu từ thơ Pháp, làm nổi bật một từ ngữ, hình ảnh nào đó. Đến Bích Khê (1915-1946) thì lối vắt dòng trở thành một thi pháp toàn diện, có giá trị thẩm mỹ riêng (dùng chữ ngắt dòng có lẽ đúng hơn là vắt dòng) như bài Duy Tân (1941):

Người họa điệu với thiên nhiên, ân ái
Buồn, và xanh trời. (Tôi trôi với bờ
Êm biếc - khóc với thu - lời úa ngô
Vàng - Khi cách biệt - giữa hồn xây mộ -
Tình hôm qua - dài hôm nay thương nhớ...)


Trong bài tựa Thơ Bích Khê (1988), Chế Lan Viên thừa nhận là do ảnh hưởng thơ Bích Khê, ông đã làm bài Tập Qua Hàng:
Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ
Trở về. Nắng sáng cũng mong. Cây
Cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm
Cũng thêm màu trên cánh đang bay
(3)

Bài này chưa “tân hình thức” vì còn vần cây - bay, nhưng vần ở đây, không có tác dụng gì. Bỏ vần đi, thay chữ cây bằng vườn, và xếp đặt lại, ta sẽ có:

Chỉ một ngày nữa thôi em sẽ
trở về nắng sáng cũng mong vườn
cũng nhớ ngõ cũng chờ và bướm
cũng thêm màu trên cánh đang bay


Bài thơ dưới dạng này, mà gửi đăng Tạp Chí Thơ thì tuyệt!
Nói vậy để thấy trong thơ, ranh giới giữa trường phái này trường phái khác, cựu nọ tân kia, không phải lúc nào cũng rạch ròi. Trong tinh thần đó Tân Hình Thức là một biến thái của trường thơ dân tộc; và chúng tôi tâm đắc với Khế Iêm khi anh viết “Nhìn lại mọi thời kỳ, từ truyện thống đến tự do và Tân Hình Thức, Thơ như sợi chỉ xuyên suốt, luôn luôn đổi thay, phù hợp với nhịp đập của thời đại”.(4) Là một trong những người chủ xướng, có lẽ là người tận tụy nhất với Tân Hình Thức, anh tâm sự: “Mỗi thời kỳ văn học đều có quan điểm thẩm mỹ và giá trị lịch sử của nó, vì không ai có thể phủ nhận. Nhưng có điều nghich lý là tiến trình sáng tạo cũng là tiến trình phủ nhận. Những điều chúng tôi nêu ra trong thơ tiền chiến hay tự do cũng chỉ là thể hiện tiến trình phủ nhận chính mình vì chúng tôi đã từng sáng tác thơ vần điệu và tự do trước khi chuyển qua Tân Hình Thức”(5) (Khế Iêm đã xuất bản hai tập thơ là Thanh Xuân 1992, làm theo vần điệu và Dấu Quê 1996, làm theo thể tự do).

Ngay ở Hoa Kỳ, Tân Hình Thức cũng là một thuật ngữ mới xuất hiện trong thập niên 1980 dưới dạng New formalism. Đến 1996 mới có 25 nhà thơ ra mắt dưới danh xưng New formalism như hiện nay, với tập thi tuyển Những Thiên Thần Nổi Loạn.(6) Nhưng dường như Thơ Tân Hình Thức lại bắt nguồn từ Pháp, từ thi phẩm của Jean Ristat, Từ Khúc Giục Mùa Xuân Rảo Bước (Ode pour hâter la venue du Printemps), đăng nhiều kỳ trên báo La Nouvelle Critique giữa 1977-1978. Thể thơ thông dụng ở Pháp là Alexandrin, 12 chân (âm) và tiếng Pháp đa âm. Tác giả cứ mỗi dòng 12 chân thì xuống hàng, bất chấp cú pháp và từ vựng. Đỗ Kh. đã dịch bài thơ dài này, cũng bằng cách xuống dòng, dưới dạng lục bát, có lẽ vì nó “dân tộc”: đến chữ thứ sáu thì xuống dòng tám chữ, cứ như thế & như thế suốt non một ngàn câu.(7) Bản dịch có trích đoạn đăng rải rác trên các báo như Hợp Lưu, Tạp chí Thơ, số 2 (1994), số 18 (2000). Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường, ở Luân Đôn, hợp tác vào bản dịch, tâm đắc và cao hứng làm một bài thơ dài, 31 khổ 5 câu, cũng theo lối xuống dòng tân hình thức, nhưng chọn thể thất ngôn, là bài Những Nụ Hồng của Máu, được đánh giá là tân kỳ và đặc sắc. Bài thơ đăng trên báo Thế Kỷ 21 số 27, tháng 7 năm 1991, California, có lẽ là tác phẩm thơ Tân Hình Thức đầu tiên cùng với bản dịch của Đỗ Kh. mà gần đây Nguyễn Đăng Thường đã in lại, theo dạng thủ công nghệ, dưới tên nhà xuất bản Giọt Sương Hoa.

Cuối dịch phẩm Đỗ Kh. đã cẩn thận ghi chú bối cảnh chính trị của bài thơ, Jean Ristat làm để góp phần vào tham vọng “đổi mới” của Đảng Cộng Sản Pháp trước thềm Đại Hội thứ 22 đầu năm 1977, do đó mà có hình ảnh giục giã mùa xuân. Anh còn nói thêm: Ode, dĩ nhiên, còn là một bài thơ tình. Jean Ristat là bạn trai của Aragon, là bí thư và là người thừa kế di sản văn chương của Aragon, và bài thơ có âm hưởng đồng tính luyến ái. Nói rộng ra, phong trào Tân Hình Thức tại Âu Mỹ nằm trong một khí quyển văn hóa đặc biệt, bên cạnh các phong trào Nữ Quyền, Quyền Đồng Tính luyến ái, Phản Chiến, thậm chí có cả cao trào Hội Chứng (Chiến Tranh) Việt Nam.

Cho nên khi Tạp Chí Thơ công bố: “Tân Hình Thức là một cuộc hòa điệu giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và tự do, giữa nhiều nền văn hóa khác biệt, và ở phần sâu xa hơn, hóa giải những mầm mối phân tranh đã ăn sâu vào ký ức, chẳng phải của một dân tộc mà của cả nhân loại từ hàng trăm năm trước. Chúng ta với thời gian hơn một phần tư thế kỷ, có may mắn cận kề và học hỏi những cái hay của nền văn hóa bao quanh, áp dụng những yếu tố thích hợp vào ngôn ngữ, để làm giàu cho nền thơ Việt»(8), lời văn có vẻ đại ngôn, nhưng là tâm nguyện chân thành. Các tác giả là những người có ý thức sâu sắc về văn học, và trách nhiệm của họ, họ xả thân (và tài chánh) cho thơ mà không có một tham vọng chính trị hay văn học nào. Thậm chí, sau cả thập niên cố gắng, họ vẫn âm thầm làm việc trong đơn độc, có khi là đố kị, không được như những người chủ xướng nhóm Đa Đa tại Âu Châu hồi đầu thế kỷ trước, hay nhóm Xuân Thu Nhã Tập, tại Việt Nam về sau.

Nghiệm cho cùng, thơ và người đều có tử vi. Phan Khôi đã nổi danh với bài Tình Già đăng năm 1932 trên Phụ Nữ Tân Văn. Ngày nay, e không báo nào đăng một bài gọi là thơ như Tình Già; mà có đăng thì sẽ không có tiếng vang. Lỡ có tiếng vang e chỉ gây phiền hà cho tác giả. Cụ Phan dù tái sinh, e cũng đành dứt hương thề.

Gần đây, nhà thơ Chân Phương, trước kia cùng lò Tạp Chí Thơ có bài phê bình gắt gao trường phái Tân Hình Thức Việt Nam, cho rằng bắt chước không phải phép, biến trò vắt dòng thành một tiểu xảo máy móc thiếu suy nghĩ.(9) Theo tôi thì các nhà thơ Tân Hình Thức Việt Nam cũng “tôn trọng ước lệ và cách luật” ít nhất là trong tiềm thức. Chỉ lấy ví dụ trên Tạp Chí Thơ số 20 đã dẫn, thì bài Giữa Những Dòng Thơ của Phan Tấn Hải cấu trúc chìm là thơ 5 chữ, Con Mèo Đen của Khế Iêm là thơ 8 chữ, Mưa Muộn của Nguyễn Thị Thanh Bình là thơ 7 chữ. Có người sẽ hỏi: như vậy vắt dòng làm gì. Trả lời: vắt dòng là thành phần hữu cơ trong toàn bộ kỹ thuật Tân Hình Thức. Có khi gây hứng thú, như bài Những Nụ Hồng của Máu của Nguyễn Đăng Thường đã nói ở đoạn trên; mở đầu như sau:

Mười ngàn lẻ một đêm mưa trước
Ngày chúa bị đóng đinh trên cây
Vĩ cầm buổi trưa hôm đó có
Một tia nắng khẳng khiu chiếu dọi
Qua khung cửa tò vò rơi trúng...


Hứng thú vì đọc kiểu gì, vắt hay không vắt dòng, thơ vẫn hay. Như vậy, khen tác giả tài tình cũng được, chê tác giả ăn gian, bắt cá hai tay cũng xong. Anh tự sự:
“Bài thơ dài (dòng) vì tôi rất mong muốn với vài ba người nó sẽ là một thứ Chanson du Mal Aimé, hoặc Giây phút chạnh lòng hay Le condamné à Mort của một thời kỳ, thời đại nhiễu nhương. ‘Những Nụ Hồng của Máu’ là một ca khúc đầy ‘âm thanh và cuồng nộ’, là thơ tình, thơ lãng mạn, thơ hài, thơ châm, thơ hiện thực, siêu thực, thơ hạng nhất, thơ hạng bét hay không thơ (tùy người đọc), là tiểu thuyết ba xu, là soap opera, là film noir, cải lương, hát bộ, TV, phim thời sự, là một tranh cắt dán hàm bà lằng, hay đầy nghệ thuật (tùy vào người xem) với những cóp nhặt từ đông tây kim cổ”(10) (Những bài thơ Nguyễn Đăng Thường nhắc đến là của Apollinaire, Thế Lữ và Genet).

Và hứng thú ở chỗ này nữa: Nguyễn Đăng Thường vô hình trung đã đưa ra một định nghĩa linh động và cụ thể về thơ Tân Hình Thức, mà anh không ngờ tới. Ngoài ra Tân Hình Thức không cắt đứt với truyền thống, ngược lại còn đa mang, hỗn mang hằm bà lằng quá khứ.

*
Cao đẹp thay dụng tâm đưa lời thường, và đời thường, vào thơ. Khốn nỗi, đời thường, ai biết là đời nào đây?

Cùng một chuyến Tân Hình Thức, cô Mai Ninh làm thơ trên du thuyền trên sông Nil, cô Trọng Tuyến làm thơ giữa một hội nghị khoa học tại Nhật, cô Thanh Bình ngược con đường gió trên cánh đồng xuân đến nhà ông Đinh Cường, khi ông này làm thơ trong lúc vẽ tranh tại Virginia; cô Ngọc Nhung làm thơ khi đi chợ đêm mua băng vệ sinh tại Quận Cam, ông Đỗ Minh Tuấn làm thơ lúc chữa ống nước tại Hà Nội, ông Đỗ Kh. vừa làm thơ, vừa làm tình rải rác đó đây trên thế giới rồi chép miệng sướng cũng chẳng có nhiều... Vậy đời nào là đời thường? Lời nào là lời thường?

Do đó mà thơ Tân Hình Thức ỳ à ỳ ạch. Trong thơ truyền thống, từ Nguyễn Trãi đến Xuân Diệu cách nhau năm trăm năm, câu thơ không khác nhau bao nhiêu. Giữa hai ông Lưu Hy Lạc và Phan Nhiên Hạo, cách nhau vài buổi chiều, vài con đường, sao mà thơ khác biệt nhau quá!(11)

Đ.T
(244/06-09)


-------------
1. Tạp Chí Thơ, số 20, tr .73, 2001, California.
2. Khế Iêm, Tân Hình Thức, tr. 35-74, nxb Văn Mới, 2003, California. Sách lý thuyết về thơ Tân Hình Thức, 180 trang.
3. Chế Lan Viên, Tuyển Tập, tr.282, nxb Văn Học, 1983, bài này trích từ tập Hái Theo Mùa, 1973-1977.
4. Khế Iêm, Tân Hình Thức, sđd, tr. 19.
5. Khế Iêm, Tạp Chí Thơ, tr.114, số 21, 2001, California.
6. Mark Jarman và David Mason ấn hành, Rebel Angels, nxb Story Line Press, 1996, Oregon, tái bản 1998.
7. Jean Ristat, Ode pour hâter la venue du Printemps, nxb Gallimard, 1978, Bản dịch Đỗ Kh. Đoản Khúc để mùa Xuân đến vội, nxb Giọt Sương Hoa, 2001, London.
8. Tạp chí Thơ, số 20, sđd, tr.75.
9. Chân Phương, Tạp Chí Văn Học, tr.74, số 226, tháng 7- 8, 2005, California.
10. Nguyễn Đăng Thường, Tạp chí Thơ, tr.124, số 18 năm 2000.
11. Cho đến hôm nay, tôi biết có ba tập Thơ Hình Thức đã xuất bản: Trong nước: Đoàn Minh Hải, Đại Nguyện của Đá, 2002. Tại Hoa Kỳ: Lưu Hy Lạc, 26 Bài Thơ Tân Hình Thức, Giọt Sương Hoa, 2002; Hà Nguyên Du, Gene Đại Dương, nxb Tạp Chí Thơ, 2003.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

  • NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).

  • ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.