Về một số nghiên cứu tượng người và thú trên lăng tẩm các vua Huế

09:27 05/05/2017

NGUYỄN VĂN LÊ NHẬT

Kiến trúc lăng tẩm Huế có ngôn ngữ riêng biệt và ý nghĩa sâu xa. Chốn âm phần song lại có cả cung đình để nghỉ ngơi, hưởng thụ; có nhà hát để thưởng thức nghệ thuật sân khấu và sắc đẹp giai nhân; nội thất ở các lăng giống như một viện bảo tàng mỹ thuật... Tất cả các lăng mộ đều có điểm giống nhau, là đều có hàng tượng văn võ bá quan, binh lính, voi ngựa (sau đây gọi chung là tượng người và thú).

Trước đây, những giá trị mỹ thuật của tượng người và thú trên lăng tẩm các vua Huế gần như chưa được nhìn nhận. Thứ nhất, rất ít người bỏ công nghiên cứu chúng. Ngay cả L.Cardiére viết rất nhiều bài về mỹ thuật Huế, song ít nhắc đến tượng người và thú ở các lăng tẩm. Công trình “Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế” (nhiều tác giả, Nxb. Hội Nhà văn, 1992) cũng chỉ dành khoảng 400 chữ nói về tượng người và thú trên các lăng vua…
 

Tượng ở lăng vua Gia Long
Tượng ở lăng vua Khải Định
Tượng người và thú ở lăng vua Tự Đức
Tượng voi lăng vua Minh Mạng
Tượng voi ngựa ở lăng vua Thiệu Trị
Tượng ở lăng vua Đồng Khánh

Thứ hai, nhận định về các tượng cũng chưa được chính xác. Ví như trong công trình nghiên cứu “Những tượng đá trong các lăng tẩm người An Nam”, in trong tập Bulletins et Travanx pour 1939, tác giả Ed.Cartagnel viết: “Nói về các tượng tạc bằng đá trong các lăng tẩm, chúng tôi bắt buộc phải kết luận rằng ý sáng tạo thực quả là nghèo nàn, hơn nữa còn một sự vụng về là tạc những tượng đá to quá mà không nhận thấy rằng thế kỷ 19 nghệ thuật này đã bị thoái hóa… Vào thời gian xây những tôn lăng này thì nghệ thuật ấy đã ở bước thoái khá trầm trọng. Những dáng điệu cứng đờ bắt buộc phải tạc theo yêu cầu lễ nghi của triều đình càng làm cho nhà điêu khắc thêm lúng túng…, phong cách tạo hình của toàn bộ thật cứng nhắc và không còn chút gì là nghệ thuật”. Công trình nghiên cứu “Lăng Thiệu Trị” của G.Langrand in trên B.A.V.H (tập XXVI, 1939, Nxb. Thuận Hóa, 2012) chỉ có vài dòng về tượng các quan văn võ, mà lại cũng đầy thiển kiến: “Một sân chầu đầy tượng các quan văn, quan võ, lại có cả tượng ngựa, tượng voi… Dù sao đi nữa người ta có thể nói rằng những tượng đá này đều hơi cứng, còn tượng ngựa đều xấu, tượng voi thì khá hơn; các tượng quan cũng quá thấp trên đôi chân của họ, chẳng biểu lộ nét tình cảm gì, song ở một vài chi tiết trong các tượng ấy có một số đường nét đẹp thật sự, đó là những đường nét biểu thị sự rũ xuống của vài ống tay áo rất rộng mà họ giấu tay vào trong để cầm cái hốt ở hai bàn tay. Tuy nhiên, người ta có thể nói rằng nghệ thuật tạo tượng của An Nam không vươn lên cao quá, mặc dù những pho tượng ở lăng Thiệu Trị vẫn còn đẹp hơn tượng ở các lăng khác rất nhiều”.

Các nhà nghiên cứu Việt Nam tiếp sau đó, cũng không chút “thiện chí” khi nhận định về tượng các quan. Năm 1970, trong cuốn “Lược sử mỹ thuật Việt Nam” (Nxb. Khoa học xã hội, trang 127), Nguyễn Phi Hoanh cũng phát biểu: “Tượng ở các lăng từ Gia Long về sau có thể nói là thuộc vào loại ấu trĩ của nghệ thuật. Những tượng người và voi ngựa rập khuôn một cách vụng về theo kiểu đã có ở các lăng tẩm thuộc các đời vua nhà Minh (Trung Quốc) hay thời Hậu Lê ở Lam Sơn… Chúng là những hình không có một mảy may sinh động cũng như triều đại đẻ ra chúng. Chúng tôi xin nêu ra một ví dụ điển hình là tượng ngựa ở lăng vua Thiệu Trị cũng như ở nhiều lăng khác. Ta cứ tưởng tượng một thân hình ngựa rất to không theo một nguyên tắc nào về giải phẩu học, nằm trên bốn cái chân hình ống đứng thẳng như bốn khúc nứa dựng lên. Để diễn tả bốn chân ngựa, tác giả làm hình ống ngắn hơn như bốn hộp “bơ” để dưới… Đây là con ngựa đá! Trước một hình như vậy, ta phải tự hỏi tác giả không bao giờ nhìn thấy một con ngựa chăng? Và chẳng lẽ cũng không bao giờ nhìn thấy một con người? Tượng người trong các lăng không hơn gì tượng ngựa. Chúng không có một giá trị gì về nghệ thuật”…

Phải đến sau 1980, tượng các quan văn võ ở lăng tẩm Huế mới được nhìn nhận đúng mức hơn. Năm 1989, trong cuốn “Mỹ thuật của người Việt” (Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội, trang 258), các tác giả Nguyễn Quân - Phan Cẩm Thượng đánh giá: “Tổng số lượng trong lăng mộ đã xét gồm: người - 68, voi - 12, ngựa - 12 là bộ sưu tập điêu khắc đáng kể của điêu khắc Huế(1). Kích thước thường bằng từ 2/3 đến 1/2 nguyên mẫu, chất liệu đá và bê tông. Các chi tiết trên tượng rất được chú trọng như nếp áo, nếp quần, mặt mũi, các bộ phận của con thú tạo hình chung lại càng đơn giản nên gây cảm giác đơn lẻ, lạnh lùng và thiếu sức sống, phẳng, kém sinh động. Sự bày đặt đăng đối hai dãy tượng kéo dài tăng tính tưởng niệm và trang trọng của điêu khắc lăng mộ Huế, rất hợp với kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên”.

Nhưng phải đợi đến năm 1996, qua bài viết “Nhận thức về mỹ thuật Huế qua tượng lăng mộ Huế” của nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ in trên “Huế Xưa & Nay” (số 16), giá trị mỹ thuật của các tượng người và thú trên các lăng tẩm mới được nhìn nhận xác đáng: “Các tượng tạc bằng đá, nghệ sĩ ngoài vận dụng ngôn ngữ điêu khắc còn tận dụng các mảng trên tượng để trang trí, tạo cho áo mũ được thêu, gợi chất liệu vải, giảm đi vẻ cứng trơ… Về kích thước, các tượng người đều cao xấp xỉ người thực đã trưởng thành, từ đó tính sang tượng thú tạo sự tương quan trong quần thể… Chất liệu đá hợp với môi trường ngoài trời, theo quan niệm của nhân dân lại là vật chất thiêng để linh hồn trú ngụ, có màu xanh xám hợp cảnh lăng trầm mặc…”. Theo Chu Quang Trứ, tượng người và thú trên các lăng tẩm có thể đại diện cho giá trị tự thân của điêu khắc Huế xưa. Về mặt tạo hình, những bức tượng đó được các nghệ sĩ(2) xử lý một cách có ý thức, có tay nghề. Từng đối tượng được nghiên cứu khá kỹ ở ngoại hình và nội tâm, được thể hiện với một quan niệm hiện thực theo mẫu vốn có trong trạng thái thành kính đang đảm đương công việc nghiêm túc. Điêu khắc Huế là giai đoạn mới của điêu khắc Việt: “Tượng trong các lăng mộ ở Huế là giai đoạn cuối của xu hướng giản lược ở Việt Nam, so với lăng vua các thời trước, nó giữ quan hầu hàng văn, so với làng quý tộc thời Lê, nó giữ quan hầu hàng võ, còn về tượng thú chỉ giữ lại những con vật gần gũi và thiết thực là voi và ngựa, bỏ đi những con vật hoặc “tầm thường” như chó, trâu hoặc dữ tợn và lạ như hổ, lân (nghê), tê giác… Với số tượng ấy, lăng mộ Huế muốn chuẩn hóa tượng lăng mộ VN”…

Đó thật sự là những gợi ý lý thú cho các nghiên cứu tiếp tục trong thời gian đến. Đề tài tượng người và thú trên lăng tẩm các vua Huế xem ra vẫn là mảnh đất cần được vun xới nhiều hơn.

N.V.L.N
(SHSDB24/03-2017)

------------------------
(1) Về số lượng các tượng, bài “Các tượng đá trong lăng tẩm” của website Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế (Thuathienhue.gov.vn) cho biết:

Lăng

Tượng

Voi

Ngựa

Quan võ

Quan văn

Lính

Gia Long

2

2

6

4

 

Minh Mạng

2

2

6

4

 

Thiệu Trị

2

2

6

4

 

Tự Đức

Làm lại

Làm lại

4

4

 

Đồng Khánh

2

2

4

4

 

Khải Định

2

2

4

4

12


(2) Bài “Các tượng đá trong lăng tẩm”: Các tượng ở lăng Gia Long không phải do một hiệp thợ tạc mà từ mẫu tượng của bộ Công, hai hiệp thợ ở Quảng Nam và Thanh Hóa chia nhau thực hiện. Một số người ở Huế cho biết thợ Quảng Nam tạc tưởng voi và ngựa, còn thợ Thanh Hóa tạc tượng người. So sánh tượng đá ở lăng vua Gia Long với tượng đá trong lăng mộ thời Lê - Nguyễn ở ngoài Bắc, chúng tôi thấy ý kiến trên có phần tin được. Nhưng kể cả hai hiệp thợ khi tiếp nhận cái quy lệ tạc tượng truyền thống, họ đã cải biến theo phẩm mỹ chung của thời đại mình, chú ý hơn đến chi tiết, sử dụng đường cong nhiều, khiến cho các pho tượng gần với hình mẫu thực, vừa trang nghiêm vừa sống động. Đây là một bước tiến hướng nghệ thuật tạc tượng thế kỷ XIX của nước ta tiếp cận dần với xu hướng chung của thế giới.



 


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Di tích lịch sử Đình Dương Xuân Hạ nằm ở khu vực thuộc làng cổ Dương Hóa, với bề dày lịch sử trên dưới 500 năm.

  • HOÀNG NGỌC CƯƠNG

    LGT: Trong quá trình tìm hiểu về sự nghiệp trước tác của Thái sư - Tuy Thịnh Quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865)(1), chúng tôi đã phát hiện ra bài tựa Ninh Tĩnh thi tập tự [寧靜詩集序: Bài tựa Tập thơ Ninh Tĩnh]; được in trong sách Trương Quảng Khê công văn tập [張廣溪公文集: Tap văn của ông Trương Quảng Khê], từ tờ 29a - 30a, tập sách hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, dưới ký hiệu R.315.

  • TÔN THẤT BÌNH

    Kim Long (còn được gọi là Kim Luông) vốn là đất các chúa Nguyễn chọn nơi lập phủ từ năm 1636 đến 1687. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn mới dời phủ về Phú Xuân, cách Kim Long chỉ 3 cây số, dọc theo bờ Sông Hương.

  • CAO THỊ THƠM QUANG

    Kinh thành Huế là tòa thành ở Cố đô Huế, nơi đóng đô của vương triều Nguyễn trong suốt 140 năm từ 1805 đến 1945. Hiện nay Kinh thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.

  • TRẦN VĂN DŨNG   

    Vừa qua, sau khi tấm hình chụp về Ngọ Môn không có 8 bộ mái lợp ngói thanh lưu ly ở lầu Ngũ Phụng xuất hiện trên các trạng mạng xã hội đã lôi cuốn một lượng lớn độc giả quan tâm tìm hiểu, đã có nhiều ý kiến bình luận đưa ra khác nhau.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Nhà vườn truyền thống là di sản đặc trưng tạo nên bản sắc văn hóa Huế, ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tính cách, tâm hồn của con người xứ Huế.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Triều Sơn, một tên làng đã vào dạ người Huế bao đời nay, qua câu hò ru em vời vợi. Nhiều người Huế nghĩ rằng làng Triều Sơn chuyên buôn bán, với cụm từ “Triều Sơn bán nón” có trong bài hò ru em phổ biến.

  • THANH HOA - LÊ HUỆ

    Chợ Đông Ba có vị trí đắc địa khi nằm ở trung tâm thành phố Huế, dọc bờ sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía Bắc. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân xứ Huế mà còn là nơi để du khách tìm hiểu văn hóa vùng đất Cố đô.

  • VÕ QUANG YẾN

    Tạp chí Sông Hương đã có nhiều lần đề cập đến vấn đề sông Hương và cầu Trường Tiền, nhất là về năm xây cầu: Phan Thuận An, Phụ trương đặc biệt số 2; Quách Tấn, số 23; Hồ Tấn Phan, Nguyễn Thị Như Trang, số 29.

  • “Màu vàng lồng lộng chảy tràn lá xanh” là bộ sưu tập 11 chiếc áo dài xưa, bảo vật của gia đình Tiến sĩ Thái Kim Lan, gồm long bào Vua Khải Định, áo dài gấm the, áo mệnh phụ, áo lụa vàng, áo dài Hoàng thái hậu, áo mệnh phụ công nương, áo gấm xanh rêu, áo xiêm, áo dài lụa vân xanh... Được sự hỗ trợ của Viện Goethe tại Hà Nội lần này bộ sưu tập được đưa từ CHLB Đức về trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Huế,  từ 18/5 đến 12/6/2016. Nghệ sĩ sắp đặt Veronika Witte, cũng từ CHLB Đức, trực tiếp thực hiện trong một không gian vô cùng lý tưởng. Tại phòng trưng bày chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh chủ nhân bộ sưu tập.

  • PHẠM HỮU THU

    Những ai đã từng qua lại con đường Ngô Quyền, hẳn sẽ mừng vui khi thấy nơi này vừa xuất hiện một công trình mà nhiều người quen gọi là Bệnh viện quốc tế Trung ương Huế. Đây là mô hình xã hội hóa được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Y tế và Bệnh viện Trung ương Huế là đơn vị đầu tiên của cả nước (trong số 18 bệnh viện) được Chính phủ cấp tín dụng ưu đãi nhằm hiện thực hóa chủ trương này.

  • LÊ QUANG THÁI

    Một thời trong quá khứ xa gần, người phương Tây đã từng gọi và như đặt tên cho Đô thành Phú Xuân Huế là “thành phố quan lại”.

  • Một số thông tin chung

    Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015. Trong đó có cho biết:

  • Một số thông tin chung

    Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Hội quán Quảng Tri hiểu một cách nôm na ý nghĩa về cái tên của hội quán này là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật... nhằm mở rộng sự hiểu biết. 

  • LTS: Trong thời gian qua, báo chí trong nước đã phản ảnh về việc Hội Quảng Tri - nơi diễn ra các hoạt động khai trí ở Huế đầu thế kỷ 20 - được đề xuất phá dỡ, xây mới để làm …trụ sở UBND phường.
    Đề xuất này khiến người dân Huế và những người yêu Huế nói chung, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ Huế nói riêng lo lắng, nhiều ý kiến đề nghị cần cẩn trọng.

  • ĐỖ XUÂN CẨM

    TƯỞNG HAI LÀ MỘT, NHƯNG MỘT MÀ HAI

    Nhắc tới cây Bồ đề, hầu như đa phần người dân xứ Huế có cảm giác rất thân thuộc.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Từ năm 1917, tạp chí B.A.V.H đăng bài “Cầu ngói Thanh Thủy” của R.Orban. Trong bài nghiên cứu này ngoài phần khảo tả cầu ngói, tác giả đã công bố bản dịch đạo sắc do vua Lê Hiển Tông ban khen bà Trần Thị Đạo, người có công đóng góp tiền của xây dựng cầu ngói Thanh Thủy.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Năm 1776, trong sáu tháng làm quan ở Huế, có điều kiện ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, đọc kỹ văn thơ ở vùng đất Thuận Hóa để viết tập bút ký Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã đưa ra một nhận định mang tính tổng kết: Đây là vùng đất “văn mạch một phương, dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm!”.

  • Ở thời điểm năm 1987, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên nêu quan điểm cần đổi mới tư duy lịch sử, nhận thức đúng sự thật lịch sử và thảo luận tự do, dân chủ, rộng rãi, trong đó có vấn đề xem xét lại nhà Nguyễn và thời Nguyễn.