PHAN NAM SINH
(bàn thêm với nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân)
Ảnh: internet
Xin tự giới thiệu với anh, tôi là con thứ tám trong số mười người con của nhà văn - nhà báo Phan Khôi. Đã từ lâu tôi mong được gặp anh để cảm ơn anh về công trình Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo được biên soạn rất công phu về ông thân sinh tôi nhưng chưa có dịp. Tôi sẽ làm điều đó khi có điều kiện ra Hà Nội, còn hôm nay xin phép được trao đổi với anh về bài báo Suýt chuốc họa vì… thơ Tết của anh đăng trên Tuổi Trẻ Cười số Xuân Kỷ Sửu (1999). Gọi là trao đổi với anh về bài báo nhưng thực ra chỉ tập trung vào bài thơ của ông thân sinh tôi mà giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã giúp anh “cài chữ Hán, dịch nghĩa và dịch thơ” như anh đã viết trong bài báo.
Năm 1912, theo âm lịch là năm Nhâm Tý vì vậy tôi mạn phép đặt tên cho bài thơ của ông thân sinh tôi viết vào đầu năm này là Nhâm Tý khai bút để tiện trao đổi với anh.
Tình thực, tôi chưa hề biết bài thơ này trước khi nhận được số báo Tuổi Trẻ Cười Xuân Kỷ Sửu do người anh ruột của tôi là Phan Trản ở TP. Hồ Chí Minh gửi cho, kèm theo là một số nghi vấn về tính chính xác ở phần chữ Hán lẫn phần dịch nghĩa, dịch thơ của giáo sư Nguyễn Huệ Chi.
Đọc bài của anh, biết thêm một bài thơ, một vài chi tiết trong cuộc đời của cha mình, tôi rất lấy làm vui. Tôi đã nhiều lần đọc lại nguyên văn và bản dịch bài thơ, cố để nhớ nhập tâm. Có lẽ nhờ thế mà cũng như anh tôi, tôi cho rằng có thể một vài chỗ giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã nhầm. Tôi chỉ dám nói là “có thể” thôi vì từ lâu tôi đã đọc và học sách của giáo sư, còn những gì tôi biết được để trao đổi với anh hôm nay phần nhiều là do tự học mà có.
Tôi nghĩ hai chữ “lăng tiêu” trong câu thứ ba của bài Nhâm Tý khai bút không thể viết như giáo sư Nguyễn Huệ Chi là 淩 瀟 mà phải viết là 凌 霄 mới đúng. Bởi chữ “lăng” viết như giáo sư Huệ Chi (淩) tuy là dạng khác của chữ “lăng” (凌) nhưng khi kết hợp với “tiêu” (霄) thì phải viết là 凌. Còn chữ “tiêu” như ông Huệ Chi viết (瀟) là tên khác của sông Nê Giang (泥 江) thường kết hợp với “tương” (湘) để thành “Tiêu Tương” (瀟 湘) tên hai con sông hợp lưu với nhau ở địa phận tỉnh Hồ Nam - Trung Quốc, nơi vua Thuấn đi tuần thú và chết ở đó. Hai bà vợ đi tìm ngồi khóc làm tre hai bên bờ sông lốm đốm như trổ đồi mồi. “Tiêu Tương” trở thành biểu tượng cho sự trai gái thương nhớ nhau, theo tôi không có liên quan gì đến nội dung của bài “khai bút” cả. Hơn nữa theo chỗ tôi biết, chữ “tiêu” như ông Huệ Chi viết (瀟) không có khả năng kết hợp với yếu tố “lăng” (凌) trước nó để thành từ ghép “lăng tiêu” (凌 瀟) với nghĩa là “bất chấp gió sương” như giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã dịch. Còn chữ “tiêu” mà tôi nói (霄) lại có khả năng kết hợp với yếu tố “lăng” trước nó và yếu tố “khí” sau nó để thành tổ hợp “lăng tiêu khí” (凌 霄 氣) như trong bài thơ với nghĩa là “khí bốc ngút trời” rất có quan hệ đến nội dung bài “khai bút” của ông thân sinh tôi. Vì vậy câu thứ ba của bài thơ theo tôi phải dịch là “khí lạ (chỉ hương quế và hương xuân) bốc ngút trời mà không người nào biết” mới hy vọng đúng với ý đồ của tác giả bài thơ. Chỉ có “khí” hay “hương” thì mới có thể “theo gió xuân cùng đến trong một đêm”, còn như “khí cốt” dù cho là “khí cốt kỳ lạ” như giáo sư Nguyễn Huệ Chi hiểu và dịch thì cũng không làm sao có thể theo đến cùng với gió xuân được! Vả lại, “kỳ khí” mà dịch là “tiết cứng” thì có thể đúng khi nói về cây trúc, cây mai còn khi nói về cây quế thì nghe có vẻ như “ép” mà cũng không có cơ sở và tiền lệ thật vững vàng. Lại điều này nữa cũng nên chú ý là trong cuộc đời thực cũng như trong thơ văn, trong các bài đăng báo, tôi chưa từng bao giờ nghe ông thân sinh tôi tự khen hay khoe cái “tiết cứng” của mình dù là một cách kín đáo hay bóng bẩy cả. Vả lại, hồi này ông chỉ mới 25 tuổi. Ở vào cái tuổi đó, hỏi sự từng trải đã được bao nhiêu, thử thách cũng chưa nhiều, làm sao ông dám mạo nhận mình là người có “tiết cứng” được? Có lẽ giáo sư Huệ Chi vì nghe nói hoặc chứng kiến vài biểu hiện khí tiết như thế nào đó của ông thân sinh tôi rồi bị ám ảnh hoặc vì yêu quá mà dịch như vậy chăng?
Vì những lẽ trên, tôi mạn phép “cài” lại chữ Hán, phiên âm và thử dịch ra thơ Đường luật và thơ lục bát theo cách hiểu và cảm của mình để giới thiệu cùng bạn đọc quan tâm tới Phan Khôi và cũng là để anh rõ hơn ý tôi:
Nguyên văn: “壬 子 開 筆”
春 日 無 花 亦 復 佳
庭 前 尚 有 桂 新 栽
凌 霄 奇 氣 無 人 識
曾 共 東 風 — 夜 來
Phiên âm: “Nhâm Tý khai bút ”
Xuân nhật vô hoa diệc phục giai
Đình tiền thượng hữu quế tân tài
Lăng tiêu kỳ khí vô nhân thức
Tằng cộng đông phong nhất dạ lai
Dịch nghĩa:
Ngày xuân không có hoa mà vẫn đẹp
Trước sân có mấy cây quế mới trồng
Khí lạ ngút trời mà không người nào biết
Cùng theo gió xuân về trong đêm nay
Dịch thơ (Thể Đường luật):
Xuân đến không hoa cũng tốt thay
Trước sân trồng mới quế vài cây
Ngút trời khí lạ không người biết
Theo gió xuân về kịp tối nay…
(Thể lục bát):
Không hoa cũng đẹp ngày xuân
Quế non mấy gốc trước sân mới trồng
Ai hay hương lạ một vùng
Nửa đêm vấn vít về cùng gió xuân…
Nguyên văn chỉ nói “quế mới trồng” mà không nói số cây. Giáo sư Huệ Chi dịch hẳn là “một cây”. Hồi còn nhỏ ở Quảng Nam quê tôi, thấy có nhiều nhà trồng quế trong vườn để lấy vỏ làm thuốc và hình như còn nhờ hương cây để xua đuổi tà ma gì đó nhưng ít ai trồng một cây nên tôi dịch là “vài cây” hoặc “mấy gốc”. Nguyên văn câu cuối trong bài cũng chỉ nói “cùng đến trong một đêm” mà không nói rõ là đêm nào. Có lẽ giáo sư Huệ Chi cho rằng tác giả làm bài khai bút vào sáng mồng một tết nên dịch ngay là “tối qua”. Tôi đọc sách thấy nói các cụ ta thường cũng uống trà và làm thơ khai bút ngay trong đêm giao thừa nên dịch là “tối nay” hoặc “nửa đêm”. Thực ra, nếu “kỳ khí” mà là “tiết cứng” như giáo sư Huệ Chi hiểu thì lúc nào mà chẳng được, cứ gì phải “tối qua” hay “tối nay”, nhưng nếu là “hương quế và hương xuân” như tôi hiểu thì dịch là “tối nay” nghe có vẻ hợp lý hơn. Nhà thơ cho dù là nhạy cảm hơn người thường thì cũng là con người, ai chẳng dễ cảm nhận và dễ xúc động khi hương còn đang hiện hữu hơn là khi hương đã lùi vào quá khứ.
Nhớ như vào năm 1928, khi đang viết cho tờ Đông Pháp thời báo ở Sài Gòn, ông thân sinh tôi đã có lần bàn về thơ hay. Theo ông thơ hay có hai cách: một cách hay “tự nhiên”, một cách hay “đúc đắn” nhưng hình như ông nghiêng về phía thơ hay tự nhiên hơn. Ông viết: “Tự nhiên thì có phần lưu lợi, đúc đắn thì có vẻ trang nghiêm. Nhưng trang nghiêm thì thường được bên văn từ, mất bên tính tình; mà lưu lợi thì có thể lưỡng toàn hơn”. Đọc hai bản dịch trên, cứ cho là đúng với nguyên văn cả đi, thì dẫu là người ít kinh nghiệm đọc thơ cũng dễ dàng nhận thấy bản dịch của giáo sư Nguyễn Huệ Chi nếu quả có cái hay thì là cái hay “đúc đắn” còn bản dịch như tôi đề nghị có lẽ “tự nhiên” hơn, rõ ràng phù hợp hơn với quan niệm về thơ của tác giả.
Cũng trong bài báo trên, anh đã dựa theo lời kể của chính Phan Khôi trên tờ Điện Tín số Xuân Bính Tý (1936) xuất bản tại Sài Gòn, nhắc tới tai họa mà ông thân sinh tôi suýt phải gánh chịu vì bài thơ này. Theo đó thì một lần Phan Khôi cho ông cử Mai Dị, một yếu nhân của phong trào Đông Du mượn sách, vô tình trong có để bài thơ của mình. Ít lâu sau ông Cử bị xét nhà, bài thơ rơi vào tay mấy ông quan người An Nam. Các ông này dựa vào hai chữ “đông phong” có trong bài thơ và mấy chữ “Châu Nam - Phan thị” (người họ Phan, tên Châu Nam) ở phần lạc khoản, định ghép Phan Khôi vào tội mưu đồ làm Phan Bội Châu ở phương Nam để cổ suý cho phong trào Đông du. Công sứ Quảng Nam lúc đó là Lesterlin do không tin mấy ông quan “hay chữ” này, vả lại cũng không có bằng chứng gì rõ ràng nên đã lệnh cho bọn họ thôi không truy cứu vụ này nữa. Thế là Phan Khôi may nhờ có Lesterlin mà thoát nạn! Tuy vậy, do phải chịu cái ơn hờ của viên công sứ mà Phan Khôi đã phải chuốc lấy những hồ nghi dài dài từ không ít đồng bào của mình.
Tôi đọc sách cũng như những bài viết của giáo sư Nguyễn Huệ Chi trên tạp chí Nghiên cứu Văn học từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước nhưng rất tiếc là chưa bao giờ được hân hạnh diện kiến. Hồi 1960 - 1962, tôi có học chung với em ruột giáo sư là Nguyễn Du Chi nhưng từ hồi ra trường tới giờ tôi chưa được gặp lại. Khi nghe tin tôi viết bài này, anh tôi lại gọi điện cho biết là trên “mạng” có bài gì đó của giáo sư có nhắc đến bài phê bình của ông thân sinh là Nguyễn Đổng Chi phản đối ông thân sinh tôi hồi xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm. Tôi sẽ tìm đọc để biết hơn năm mươi năm sau ý kiến của giáo sư có khác gì với cụ thân sinh không. Còn như bài phê bình của tác giả Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam hồi đó thì đến nay tôi vẫn còn nhớ, thậm chí cả cảm xúc của mình nữa mặc dầu hồi đọc nó tôi chỉ mới mười bảy, mười tám tuổi còn bây giờ cũng đã hơn bảy mươi rồi. Viết mấy dòng này để nếu anh có trao đổi lại với giáo sư hoặc may mắn giáo sư đọc được bài viết ngắn này, xin cho tôi chân thành gửi lời cám ơn tới giáo sư về những gì của ông mà tôi đã từng đọc, riêng cám ơn giáo sư về việc ông đã cài chữ Hán, dịch nghĩa và dịch thơ bài Nhâm Tý khai bút của ông thân sinh tôi mà nhờ đó tôi mới lần đầu tiên được biết dù có hơi muộn.
Tôi không muốn chỉ vì một bài thơ ngắn mà thêm một lần nữa ông thân sinh tôi lại bị hiểu lầm, dù lần này là với rất nhiều thiện ý của anh và cả của giáo sư Nguyễn Huệ Chi. Bởi vậy tôi viết mấy dòng này để trao đổi cùng anh, hy vọng nhờ đó mà cải chính mọi hiểu lầm về bài thơ này của ông thân sinh tôi. Mong anh lưu ý và nếu thấy đúng như lời tôi nói thì tùy ý sử dụng trong các sưu tập tiếp theo về ông thân sinh tôi.
P.N.S
(SH301/03-14)
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.
Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.
FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.