Về hai câu thơ trong Truyện Kiều

15:04 01/07/2009
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

(Ảnh: Internet)

Đáp: Đọc Kiều như bạn cũng ở độ tinh rồi đấy. Chi tiết này chính nhà thơ Tản Đà cũng đã phát hiện: Đã nói đào tiên thì phải viết tiếp câu sau là: vin cành đào mới hợp lí sao lại vin cành quít?

Có hai cách lí giải câu thơ này.

Cách thứ nhất: Hiểu hai câu thơ liền một mạch, tức Mã Giám Sinh thấy quả đào ngon, hấp dẫn, cầm lòng không đặng, mà tay đã vin cành (việc đã quá dễ, đã có thời cơ), thôi thì cũng liều cho sướng cái sự đời.

Hiểu theo cách này, theo Tản Đà, câu dưới phải viết: Thì vin cành đào... mới "xuôi nghĩa". Nhưng chữ đào là "vần bằng" đành thế từ khác. Câu trên đã ra vận phàm (bén tay phàm) chọn chữ cam cho câu dưới là đắc ý rồi. Chữ cam vừa đúng vần, vừa đa nghĩa: cam ngon ngọt, cam chịu hay thoả lòng... Được một chữ cam, thế còn chữ thứ tư dòng thơ tám chữ này? Thôi thì cam đi liền với quít (quít làm cam chịu - TN). Thi sĩ Tản Đà cho rằng: "trong khi quẫn bách về một chữ, mà lại tiếc cái bóng bẩy của một câu, tác giả mới đem chữ quít đặt tạm vào đó để thế nghĩa chữ đào... Sự đặt tạm ấy rồi sau cùng không thể thay thế được, tác giả đành cứ để luôn, nhất là hay, nhị là dở, phần nhận nghĩa phó mặc người xem văn... Nay ta đọc đến câu này, biết đó là chữ quít, mà cứ nhận nghĩa cho nó là chữ đào, ấy là tri kỉ của tác giả".

Cách hiểu thứ hai: Tách nghĩa hai câu thành hai ý riêng biệt. Đào tiên đã bén tay phàm là một chuyện. Người xưa cho rằng; đào tiên quí lắm, ai ăn được sẽ sống mãi. Tất nhiên gã Mã Giám Sinh chẳng nghĩ gì đến chuyện sống lâu. Chắc Mã nghĩ: đào tiên quí hiếm, đẹp đẽ, hấp dẫn thế, nay ta là kẻ phàm phu tục tử mà cũng được hưởng...

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du hay nói đến đào tiên, đào non, yêu đào, đào nguyên... vừa có ý nói đến chuyện của lạ đã nói ở trên vừa là thi tứ trong Kinh thi: đào, chỉ người con gái đi lấy chồng (Đào chi yêu yêu/ Chước chước kì hoa/ Chi tử vu qui/ Nghi kỳ thất gia (cây đào xanh non mơn mởn, hoa nở đỏ hồng. Cô kia về nhà chồng, hoà thuận yên ấm...) - bài Đào yêu).

Thì vin cành quít cho cam sự đời: Hai ông Bùi Kỉ và Trần Trọng Kim thì cho rằng: Câu thơ này lấy ý trong thơ xưa "Lão nhân du hí như đồng tử, bất chiết mai chi chiết quất chi" (Người già chơi như trẻ con, không bẻ cành mai, lại bẻ cành quít). Ý muốn nói: Đáng lẽ làm việc này lại đi làm việc khác. Mã mua Kiều để kiếm lời mà ăn lại nghĩ đến chuyện ong bướm lả lơi!

Như vậy, liên kết hai câu lại có thể hiểu: cô Kiều quí - đẹp thế, nay vì việc đi lấy chồng mà ta (MSG) được gần gụi. Thôi đành gác lại chuyện làm ăn, hãy hưởng lộc đã.

Dẫu hiểu theo nghĩa nào cũng bộc lộ tâm trạng khát khao, tận hưởng của hiếm trên đời ở Mã Giám Sinh.

Hiểu câu chữ Truyện Kiều, không ai dám quyết đoán. Vì vậy tôi đã dông dài mấy ý. Mong được gặp bạn, cùng nhau đàm đạo.

L.X.L
(179-180/01&02-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN XUÂN HÒA Ưng Bình Thúc Giạ thị (1877 -1961) và Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là hai nhà thơ Huế giàu tài năng sáng tác vừa có mặt chung, mặt riêng, phản ảnh cuộc sống xứ Huế được nhân dân mến mộ, khâm phục.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU* Thưa ông, qua hai tác phẩm gần đây nhất của ông, tôi được biết ông quan tâm nhiều đến vấn đề Phê bình Văn học ở nước ta. Theo ý ông, Phê bình, Nghiên cứu Văn học ở Việt Nam những năm gần đây có biến đổi gì không? Hay nó dậm chân tại chỗ như một vài người đã nói?

  • PHONG LÊIĐến với tôi một nhận xét: Đại hội nhà văn lần thứ VI, tháng 4- 2000, do việc bầu đại biểu từ 8 khu vực, nên vắng hẳn đi những người có thâm niên nghề nghiệp cao. Đặc biệt là những vị có sự nghiệp đáng trọng trên các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, những người có vị thế bậc thầy trên nhiều phương diện của kiến thức đối với các thế hệ viết trẻ.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Tiếp theo Sông Hương số 253 tháng 3/2010)

  • HỒ THẾ HÀNhìn vào tiến tình văn học đương đại Việt Nam, căn cứ vào các giải thưởng văn học, các hiện tượng văn chương nổi bật trong hơn hai thập kỷ qua, - so trong tương quan các thể loại, nhiều người không khỏi lo lắng và lên tiếng báo động về sự xuống cấp của thơ.

  • TRẦN THIỆN KHANHSau chiến tranh khoảng 10 năm, đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nhà văn đủ mọi thế hệ nghĩ và viết trong một bối cảnh mới. Song họ vẫn chưa thoát khỏi những yêu cầu của đoàn thể, họ vẫn phải phục vụ một “biểu tượng xã hội về chân lí”(1) cái biểu tượng có tính giai cấp, tính chiến đấu, hoặc ít ra cũng có tính nhân dân và màu sắc dân tộc đậm đà đính kèm.

  • BỬU NAMThiên nhiên là “không gian sống” và “không gian tâm tưởng” của con người và thi sĩ phương Đông, nó đã lắng sâu trong vô thức của họ và đã trở thành một loại “không gian văn hóa” và là một hằng số quan trọng trong thơ ca phương Đông.

  • THANH THẢOMỗi nhà văn đích thực đều là mỗi nhà không tưởng ở những mức độ khác nhau. Tônxtôi là nhà văn vĩ đại, đồng thời là nhà không tưởng vĩ đại.

  • THU TRANG (Paris) Có thể từ đầu thế kỷ, do hoàn cảnh lịch sử, người Việt Nam đã tiếp cận văn hóa Pháp. Chúng ta phải công nhận phần ảnh hưởng phong phú do các luồng tư tưởng, quan niệm Tây phương đã tác động đến giới trí thưc và văn nghệ sĩ nhiều ngành.

  • NGUYỄN THẾ - PHAN ANH DŨNGCầm trên tay cuốn Truyện Kiều tập chú (TKTC), NXB Đà Nẵng, 1999, dày hơn 1000 trang của các tác giả Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hòa, chúng tôi thấy đây là một công trình nghiên cứu công phu, tập hợp và chọn lọc được một số chú giải của các học giả nổi tiếng.

  • FRANCOIS JULLIEN (Trích dịch ch. IV cuốn Đối thoại của Mạnh Tử với một triết gia Khai sáng)

  • HOÀNG NGỌC HIẾNTôi hào hứng đi vào đề tài này sau khi đọc bài tiểu luận của Tỳ kheo Giới Đức “Phật giáo có thể đóng góp gì cho minh triết Việt?”(1)

  • ĐÔNG LACon đường đến thành công thường rất khó khăn, với Nguyễn Quang Thiều ngược lại, dường như anh đã đạt được khá dễ dàng kết quả ở hầu hết các lĩnh vực sáng tạo văn chương.

  • TRẦN HUYỀN SÂMMỗi thời đại đều mang lại một quan niệm văn chương khác nhau. Đối với cha ông xưa, họ không hề có ý định lập ngôn, lại càng không chủ trương xây dựng cho mình một học thuyết có tính hệ thống.

  • CAO HUY HÙNGChủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà cả bạn bè trên khắp thế giới đều giành tình cảm trân trọng đặc biệt đối với Người. J.Stésron là nhà sử học người Mỹ một trong số những người đã dày công tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

  • NGÔ THỜI ĐÔN        (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sách Phê bình văn học thế kỷ XX tác giả Giăng Ivơ Tađiê có nói tới ba bộ phận phê bình. Phê bình văn học ta hiện nay chủ yếu cũng có ba bộ phận ấy họp thành: phê bình báo chí, phê bình của các nhà văn nhà thơ và phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.

  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

  • NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.