Về bốn chữ "mê tín dị đoan"

14:21 31/03/2010
ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

Nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn - Ảnh: vietnamnet.vn

Tác giả còn đưa ra cụm từ "ý tưởng chiêm nghiệm tâm linh" mà theo anh, ý tưởng này đã "đặt được các vấn đề bí ẩn để soi đường cho khoa học nghiên cứu. Phủ nhận ý tưởng tâm linh là phủ nhận khát vọng khám phá bí ẩn mà bất kỳ ở thời nào thì loài người vẫn còn những vấn đề chưa nhận thức hết". Vậy là, cụm từ ý tưởng tâm linh, ý tưởng chiêm nghiệm tâm linh văn hóa tâm linh, hóa ra là một? Vì khuôn khổ bài viết, tôi sẽ không bàn về những thuật ngữ, cụm từ này mà chỉ xin đáp lời đề nghị của nhà văn Thạch Quỳ: "Tôi đề nghị các nhà văn nghiên cứu cần định nghĩa cho được bốn từ "mê tín dị đoan".

Thực ra thì "mê tín "dị đoan", là hai khái niệm khác nhau, không thể đứng liền.

"Mê tín" là: "Bất biện sự lý chi thị phi nhi võng tín dã - không phân biệt được phải trái của "sự lý" mà cứ tin xằng, tin một cách mê muội - (Từ nguyên, trang 1456).

Còn "dị đoan" có xuất xứ trong thiên Vi chính, sách Luận ngữ. "Tử viết: Công hồ dị đoan tư hại dã dĩ" (Khổng Tử nói: nghiên cứu các "dị đoan" là hại lắm vậy). Nghiên cứu 'dị đoan" là nghiên cứu gì? Nghĩa gốc của "đoan" là đầu mối của cuộn tơ. "Dị đoan" là đầu mối khác. Cuộc đời có lắm việc, sự vật cũng có lắm góc cạnh, cứ bời bời như các đầu tơ mối chỉ, nên người xưa dạy: "Thiên hạ chi lý vô cùng, thiên hạ chi sự diệc vô cùng. Vị khả cứ kỳ sở kiến, chấp nhất đoan luận chi" (Lý trong thiên hạ là vô cùng, sự trong thiên hạ cũng vô cùng. Không thể chỉ bằng vào cái tai nghe mắt thấy, chỉ nắm được một đầu mối của sự lý đã vội phán bừa như "thầy bói xem voi"). Học thuật cũng thế, thời nào cũng có lắm đầu mối, lắm học thuyết. Thời Khổng Tử cũng có lắm học thuyết. Nhưng ông chỉ xem học thuyết của ông mới là "đại trung chí chính". Các học thuyết khác đều bị ông xếp vào "dị đoan" tức là các mối dây khác với mối dây của ông. Nhưng dù thế, học thuyết "phi Nho" vẫn là một thế lực, "phi Thánh nho chi đạo nhi lánh vi nhất đoan" - Chu Hy (tuy không phải "Thánh nho" nhưng các "đạo" đó vẫn tách biệt như một "đoan", tồn tại song song với Khổng Tử mà ông không làm gì được; vì ông chỉ là một "tố vương" - một ông vua không ngai, suốt đời đi hết nước này đến nước khác truyền đạo mà chả mấy ai theo - có khi thấy trò còn suýt chết đói! Câu nói của ông, do vậy, chỉ là lời khuyên môn đệ: "Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ" (Nếu các trò mà cứ bỏ công nghiên cứu các "dị đoan" - ví như học thuyết của Dương Chu, Mặc Định thì nguy hại lắm).

Với nghĩa gốc trong xuất xứ của "dị đoan" như thế, ta thấy nó đã có một nghĩa xác định - là "một chủ thuyết, một trường phái học thuật, một lĩnh vực văn hóa nào đó" không phải "Thánh nho" của Khổng Tử. Theo nghĩa này, những người theo chủ nghĩa duy vật sẽ nhìn văn hóa tâm linh, văn hóa tín ngưỡng là các "dị đoan" so với khoa học - bởi tuy không xuất phát từ cơ sở lý thuyết xác đáng nhưng văn hóa tâm linh vẫn tồn tại từ lâu như một thực tiễn trong đời sống văn hóa xã hội. Tôi đồng ý với nhà văn Thạch Quỳ, các "dị đoan" này đã và sẽ là chất xúc tác "đặt được các vấn đề" để các nhà khoa học đi sâu vào nghiên cứu bí ẩn của giới tự nhiên. Bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng: trong giới tự nhiên không có những điều không thể biết, chỉ có những điều con người chưa biết được mà thôi. Những điều chưa biết được đó chính là mảnh đất sống của cõi tâm linh, của ước mơtưởng tượng, của thần thoạitrường ca cô, và cũng là mảnh đất để các tôn giáo chân chính từ hàng ngàn năm qua đã xây dựng nên những học thuyết, những trang thơ văn cô đọng bất hủ - trong đó có những vần thơ Thiền trác tuyệt, những câu văn hàm xúc trong Kinh Thánh... như dấu ấn tuổi thơ một đi không trở lại của nhân loại.

Tôn giáo cũng đa dạng. Mỗi: "giáo" chân chính đều có cách hiểu thế giới của mình. Mỗi giáo là một "dị đoan" so với giáo khác. Trong một giáo cũng có lắm "đoan", lắm mối, cũng "đa đoan" như khối óc một con người. Nhưng bất kỳ một tôn giáo học thuyết chân chính nào thì, suy cho cùng đều hướng tới vấn đề nhân bản, đều mong cho xã hội thanh bình hạnh phúc mà ở đó mỗi con người đều được sống vì cái Chân, cái Thiện, cái Mĩ. Hẳn mọi người còn nhớ: vào năm 1946, để trả lời một câu hỏi của phóng viên tại nước ngoài: Thế rút cục thì, xin hỏi ngài, ngài là người quốc gia hay quốc tế? Hồ Chủ Tịch khi đó điềm tĩnh đáp: Tôi là người yêu nước. Khổng Tử có điều vĩ đại là đạo đức tu thân, đức Phật Thích Ca vĩ đại ở lòng vị tha bác ái; chúa Giê su vĩ đại ở chủ trương cứu khổ nạn cho loài người; ông Các Mác vĩ đại vì có phép biện chứng; bác sĩ Tôn Dật Tiên thì có chủ nghĩa Tam dân rất hợp với đất nước chúng tôi. Các ông ấy đều giống nhau ở chỗ cùng mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Tôi tin rằng ngày nay nếu các vị ấy sống lại mà gặp nhau thì họ sẽ đối xử với nhau như những người bạn tốt. Tôi nguyện làm người học trò nhỏ của các vị ấy.

Câu chuyện trên đây cho thấy cách nhìn khoa học, dung hợp được các "dị đoan" của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người nhận thấy mỗi "đoan" đều có những nét tinh túy nổi trội cần phải tiếp thu, vận dụng. Vì thế, khi vừa giành được chính quyền, còn biết bao công việc bề bộn mà Người đã rất sớm ra sắc lệnh nghiêm cấm việc phá hủy chùa chiền, nhà thờ và các đình miếu, di tích lịch sư. Trong di sản của Người, còn nhiều bài nói, bài viết mà ở Người luôn xem các tôn giáo khác nhau như những thành viên cần thiết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã có công cùng toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Trung thành với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, cho tới nay, Nhà nước ta vẫn chủ trương coi trọng các tôn giáo, coi trọng tự do tín ngưỡng của toàn dân. Điều đó được thể hiện nhất quán trong Hiến pháp, trong các Nghị quyết, các bài nói, bài viết của các vị đứng đầu Đảng và Nhà nước ta suốt mấy chục năm qua.

Rõ ràng là, Nhà nước ta từ trước tới nay vẫn nhất quán trong việc tôn trọng các "dị đoan", chỉ chống lại những ai nhân danh "đoan" này "đạo" nọ để hành "nghề" mê tín nhằm mục đích lòe bịp một số người do trình độ văn hóa thấp, để thỏa mãn lòng tham và dục vọng của mình - ví như "pháp sư" này "tiên cô" nọ - mà điển hình là tên lừa bịp trong bài "Gã thầy bói già và bi kịch của hai cô gái" mà báo Tiền phong (8 - 12 - 1998) vừa vạch mặt chỉ tên. Chúng ta chỉ chống lại những người tuy đã ở đạo này đạo khác nhưng vì lý do nào đó, vội bỏ việc đạo xông vào việc đời (mà vốn họ không thông thạo) một cách quá sâu - bất chấp giáo lý Từ bi nơi cửa Phật, không chút sượng sùng trong bộ áo cà sa, nhảy chồm chồm lên nóc xe cảnh sát, hè nhau lật đổ, rồi đốt cháy cả xe!

Từ những điều phân tích trên đây, chúng tôi đề nghị chỉ nên dùng cụm từ "chống mê tín" chứ không thể nói hoặc viết theo thói quen "chống (bài trừ) mê tín dị đoan". Vì "mê tín" là một từ để chỉ một thói xấu. Đối với những người do trình độ văn hóa thấp mà mắc tật mê tín, chúng ta không bài trừ họ mà chỉ giáo dục nhằm dẫn họ ra khỏi cõi mê. Chúng ta chỉ bài trừ những người hành "nghề" mê tín. Có những người hành nghề mê tín chưa đọc thông viết thạo. Thế thì hà cớ gì chúng ta lại xếp họ ngang hàng với các "dị đoan" có giáo lý, lý thuyết - một khi chúng ta gộp hai khái niệm khác nhau một trời một vực vào bốn chữ "mê tín dị đoan" để chống, để bài trừ? Vẫn biết rằng hiện nay các phương tiện thông tin đại chúng còn dùng sai không ít từ Hán Việt. Báo chí nhắc nhở đã nhiều, vẫn chưa sửa được. Nhưng ở trưởng hợp "mê tín dị đoan" này, chúng tôi cho rằng nên tích cực sửa ngay vì nó đụng chạm tới cách hiểu về chủ trương đường lối tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng của Nhà nước ta.

Viết tới đây, tôi thử tìm cái mà do đó hai chữ "dị đoan" bị gán vào "mê tín". Tôi cho rằng sự lầm lẫn này là do việc hiểu chữ "công" trong câu văn Khổng Tử. Chữ "công " này có tới hơn 10 nghĩa. Nhưng có hai nghĩa dễ nhận lầm là: 1)Công kích, đả phá; 2) Chuyên tâm nghiên cứu. Như trên đã nói. Khổng Tử không hề có thế lực gì để có thể công kích, đả phá các học thuyết khác. Ông chỉ dám khuyên học trò: chớ nên "công" (nghiên cứu) các "đoan" (học thuyết) khác, chỉ nên "công" đạo Nho ông thôi!

Có lẽ là do nhận lầm nghĩa chữ "công" - theo nghĩa thứ nhất, nên trong dân gian đã cho rằng tất cả những giáo lý, học thuyết nào trái với chủ nghĩa duy vật thì đều là "duy tâm". Mà đã là "duy tâm" thì thế tất là "mê tín", là "dị đoan" so với duy vật. Thế là phải "công", phải bài trừ! Cứ nói và viết mãi như thế, "mê tín dị đoan" hóa ra quen tai, trở thành quán ngữ. Tôi chắc nhiều người rất rõ sự lầm này, nhưng vẫn chiều theo tập quán mà nói mà viết cho "gần quần chúng". Sự lầm này là tai hại lắm: chẳng những sai về học thuật mà còn gây tác hại nhỡn tiền: hiện nay, hàng năm chúng tôi phải đi nghiên cứu ở các địa phương, vẫn thấy có những ngôi đình, chùa đã bị dỡ bỏ. Có ngôi do Pháp đốt, có ngôi do Mỹ ném bom. Đau xót lắm. Nhưng đau nhất là có ngôi chùa cho đến những năm 80, chính quyền xã vẫn dỡ bỏ với lý do "bài trừ mê tín dị đoan"! Chùa đã dỡ, thì bia đá bị người ta mang về kê cột, đập lúa, làm cầu ao... Nay sờ đến để đọc, nhiều cái đã vỡ, hoặc chữ mòn hết cả! Đoàn chúng tôi, vào mùa hè năm 1993, tại một xã ở Bắc Ninh, đã từng ngẩn ngơ ngồi trên chiếc cầu ao bắc bằng tấm bia đá xanh khá lớn mà vết chân người đã dẵm mòn, nhẵn thín không còn một hàng chữ. Ghé sát mắt vào mặt bia dòm nghiêng, mong nhờ ánh sáng chiếu có thể giúp đọc được lờ mờ một chữ nào chăng, thì chỉ thu hoạch được một điều là: bia bắc làm cầu ao, mặt đá còn trơ lại sẽ bóng, nhẵn hơn rất nhiều những mặt bia bị mất chữ do mài dao, đập lúa! Chúng tôi chỉ còn biết đưa bàn tay vuốt vuốt trên trán bia, nơi còn hiện rõ những nét khắc chạm "rồng run" tiêu biểu của tấm bia đời Lý như thầm gửi lời chào vĩnh biệt một phế tích, một di sản văn hóa dân tộc để buồn bã tiếp tục hành quân sang thôn khác, xã khác xem còn tấm bia, quả chuông nào đặng cọ rửa sạch sẽ, để in cho đẹp, cho rõ chữ, mang về lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Tôi dừng bút bài viết bày trong niềm biết ơn sâu sắc Thầy tôi - Giáo sư Cao Xuân Huy - người đã cho chúng tôi hiểu kỹ lưỡng về sự lắp ghép vô lối hai chữ "dị đoan" vào sau "mê tín" trong một buổi giảng thiên Vi chính sách Luận ngữ vào một sáng Thu muộn năm 1965, để hôm nay tôi được có dịp ngẫm lại lời giảng của Thầy mà thưa cùng nhà văn Thạch Quỳ và bạn đọc.

Hà Nội ngày 17 tháng 11 năm Mậu Dần -
Ngày giỗ lần thứ 26 các liệt sĩ và nạn nhân B52
      đêm 22 tháng Chạp năm 1972.

Đ.T.T
(134/04-00)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).

  • THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.

  • TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?

  • NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...

  • TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.

  • HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.

  • TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...

  • TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.

  • PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.

  • TUẤN ANH“Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn” (Jean Lacroix)

  • NGUYỄN THẾNhững năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về Truyện Kiều đã được các học giả Việt trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều cuộc trao đổi, thảo luận về Truyện Kiều được đưa ra trong các cuộc hội thảo chuyên ngành về ngôn ngữ, văn học và trên diễn đàn báo chí, Internet...

  • NGUYỄN VĂN HẠNHI. Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn chương, và có những cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tuỳ theo hoàn cảnh, mục đích, trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957-2007)

  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.

  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.