Vầng trăng di từ Hàn Mặc Tử đến Hàn Lệ Thu

08:45 21/04/2017


LÊ TỪ HIỂN

Ảnh: internet

1. Sống trong trăng và chết như trăng

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mặc Tử, công trình sưu tập và khảo cứu 4 tập quy tụ chân dung, thi phẩm và tín niệm tâm linh - nghệ thuật của 140 thi sĩ trong dòng chảy 100 năm thơ Công giáo Việt Nam, Có một vườn thơ Đạo (Trăng Thập Tự chủ biên, Nxb. Phương Đông, Tp.HCM, 2012) - Đau hương sắc cuộc Đời… được ra mắt và chào đón như một sứ điệp thiêng hằng.

Sự thăng hoa huyền nhiệm đức tin mang một hình hài ấy được gửi đến từng tác giả và gia đình. Có một tác giả đã lặng lẽ về Nước Chúa, an nghỉ ở nghĩa trang bệnh viện Quy Hòa gió xôn xao hòa điệu sóng xanh dừa xanh liễu xanh… trời xanh thẳm. Không gia đình, không con cái. Bản sách được chuyển vào Quy Hòa, ra Ghềnh Ráng, đến Trường Đại học Quy Nhơn và về tay tôi với lời “Kính tặng gia đình tác giả Hàn Lệ Thu - Quy Nhơn 15/08/2012. KT Nhóm Biên soạn - Lm G.P.Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)”. Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) như một cột mốc khởi nguồn và tỏa bóng được dành trọn vẹn trong Tập 1 - Thi sĩ của Thánh Giá. Hàn Lệ Thu (1940 - 2007) “nằm” áp cuối Tập 2 Như song lộc triều nguyên để dẫn qua Ơn phước cả (Tập 3). Như song lộc triều nguyên quy tụ 44 tác giả sinh trong khoảng thời gian từ 1912 đến 1940, cùng thời với Hàn Mặc Tử. Một thời đại, một phong trào, một dòng thơ ca với nhiều tên tuổi, nhiều bài thơ hay. Bên cạnh một Hàn Mặc Tử từng được suy tôn người đứng đầu Thái Dương Văn Đoàn, con rồng trong nhóm Tứ Linh, Vị Chúa của Trường Thơ Loạn, chủ soái khuynh hướng thơ từ lãng mạn sang tượng trưng siêu thực ở Quy Nhơn - Bình Định, ngôi sao lạ trong phong trào Thơ Mới… còn có những tên tuổi quen thuộc: Bàng Bá Lân, Hồ Dzếnh, Võ Long Tê… Hàn Lệ Thu có vẻ lặng lẽ khiêm nhường. Kỳ lạ thay, có nhiều sự tương đồng ở cuộc đời và thơ ca hai Hàn thi sĩ như một sự tiếp nối gặp gỡ trong tâm niệm đường thơ “Không có gì làm cho ta cao quý hơn là một nỗi Đau thương lớn” (Musset).

Ôm bộ sách đồ sộ vào lòng, ông giáo một đời góp chữ, cõng chữ, gieo chữ… nhiều khi mãi quên Đời… như tôi bỗng cay mắt, nhớ thương và cúi đầu tạ lỗi cùng Dì Mười Thu Cúc. Dì ơi, con một đời phấn trắng… Nén hương thơm sám hối… Trang giấy trắng trắng trời huyền nhiệm.

Sinh thời, Dì thường ngồi lặng lẽ ở Túp lều tranh ẩn cư nho nhỏ ở khu dưỡng lão Quy Hòa. Có lần vào thăm, đón hoa quỳnh nở, tôi hỏi: Ngoại đặt tên cô gái út với nghĩa Cúc nguyệt (cúc trăng tháng 8), Cúc tú lan phương, Cúc ngạo hàn sương… đẹp kiêu sa lãng mạn mà lặng đằm, tài hoa phát tiết như Cậu Ba Nguyễn Thế Diêu đã viết ở quê nhà Thiều Quang - Tuy Phước - Bình Định: Em tôi Thu Cúc tí ti - Ưa đàn thích hát làm gì cũng ngoan… sao Dì không lấy luôn bút danh là Thu Cúc có hay không, lại là Hàn Lệ Thu nghe đẹp mà lạnh buồn hiu hắt mang bóng Hàn Mặc Tử. Dì cười, này Dì chưa gặp, không quen, chỉ biết qua thơ nhưng không vay bóng đâu. Năm Hàn mất, Dì mới chào đời. Bệnh tật vào đây mới biết Hàn sống chưa đầy 2 tháng và mất ở đây. Đơn giản là quê nhà mình lắm cúc. Đơn giản đời Dì như giọt nước mắt lạnh buồn, long lanh sương Thu khát bay về cõi ấm… chứ thi phú gì! Tình cờ như gặp ý thơ đầy máu và nước mắt của Thi Thánh Đỗ Phủ. Khóm cúc tuôn theo dòng lệ cũ. Tình cờ như một sự tiếp diễn cuộc đời và thơ ca tim vỡ máu trào Thi sĩ của Thánh Giá Hàn Mặc Tử…
 

Ảnh: thanhcavietnam.net

Ngoại con là Đại đức Thích Quảng Nguyện không muốn Dì làm thơ. Thầy bảo: Con thôi làm thi sĩ - Tứ thơ bay bướm hại linh hồn - Cho người mê cảm lời hoa mỹ - Là tự nâng mình, con biết không… Nhà Phật vốn vô ngôn, vô tự, buông bỏ… Thế mà Dì vẫn làm?! Ừ, biết làm gì hơn… Dì đã tạ lỗi với Ngoại trong bài Tâm sự được Đài Sài Gòn bình giải và diễn ngâm vào ngày 16/05/1969 trong chương trình “Tiếng Chuông Chùa”. Con ghi nhớ cả lời răn dạy - Trừ tội làm thơ con chẳng chừa! - Đứng trước ảnh Thầy, con cúi lạy - Mong Thầy hủy bỏ ý năm xưa…

Vậy là mệnh số tình cờ, ngẫu nhiên. Thơ tìm đến người, chẳng phải người tìm đến thơ… Âm thầm con khóc cùng trăng tỏ - Và thổi thơ lên khỏi áng mây. Hàn cũng hơn một lần tự nhủ: Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ… vậy mà rốt lại Ngồi lên để thả cái hồn thơ! Thơ đúng là sự tự thăng hoa huyền nhiệm của đức tin cứu rỗi mang khát vọng xanh hòa lẽ riêng chung Đạo Đời. Ở đó thương yêu tỏa nhiệm mầu - Nụ cười xoa dịu vết thương đau… Nỗi đau tình cờ. Nỗi đau ở đó. Nỗi đau hóa trăng. Trăng thơm nguyện cầu.

2. Trăng bao tuổi và thơ bao tích

Như một sự tình cờ ngẫu nhiên của nhân sinh - vũ trụ, năm Rồng vàng Hàn Mặc Tử trong Bàn thành Tứ hữu Bình Định thu hình vào mây, Phượng hoàng mang tên thánh Phanxicô Xaviê Nguyễn Trọng Trí bay về miền Xuân như ý, Thượng thanh khí… cũng là năm đóa Cúc vàng giấu kín hương Thu hé nụ ở Phước Thắng - Tuy Phước - Bình Định, Clara Ceilia Nguyễn Thị Thu Cúc đau nở đóa hoa thơ. Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ - Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời…

Hồn thơ siêu thoát Hàn Mặc Tử bay vào vũ trụ mênh mông, đến Nguồn Trăng, Nguồn Thơm, Nguồn Thơ… trong ánh sáng nguyện cầu. Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu - Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu - Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang. Cái Đẹp chết đi, lại tái sinh tái tạo. Cái Đẹp mãi lưu đày. Những Trồng hoa cúc, Vịnh hoa cúc, Hồn cúc… âu cũng chỉ là thế giới mộng ước tình thơ với chút hão huyền nuôi dưỡng. Nhưng đúng là Thơ có tuổi và chiêm bao có tích. Thu đậu lên tâm lòng khách não. Cái Đẹp chỉ là chiếc bóng Buồn Thu. Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa - Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha - Vẻ mặt khác chi người quốc sắc - Trong đời tri kỷ chỉ riêng ta.

Hàn Lệ Thu đã có bài thơ Đêm nghe tiếng cú - Kính viếng vong hồn Hàn Mặc Tử. Đêm tịch mịch chìm sâu trong bóng tối - Dãy thông dài tấu khúc nhạc bi ai - Đôi mắt con ươn ướt lệ tràn mi… vọng lời nguyện cầu xuân quang đãngGiọng cầu xin trong nước mắt chan hòa - Mẹ ơi Mẹ! Đưa con vào ánh sáng… Vậy là ánh sáng Thiên Đàng, tìm đâu xa, ở ngay chốn trần gian. Bạn không tin, ngày hỏi nắng mới lên, chiều hỏi sương chớm xuống, tối hỏi lại vầng trăng mọc giăng trời. Dẫu có bao cung bậc sắc điệu trăng, vẫn là một phần nhỏ hữu thể. Phần lớn vô hình trăng lặn sâu trong lòng bạn vô ngôn. Trăng tâm tình, trăng ứa máu, trăng vàng ngọc… và thật giản dị Trăng, Trăng, Trăng! là Trăng, Trăng, Trăng!

Sáng tạo thơ dường như là vô thức thăng hoa, nhưng bao giờ trong thẳm sâu cũng ý thức trách nhiệm, trách nhiệm thi sĩ - người thơ trước hết với chính bản thể Người của mình. Ai cũng biết, Thi sĩ vầng trăng - Hàn sinh trong mùa trăng, uống trăng, tắm trăng, mặc áo trăng, mửa ra trăng, bán cả trăng, Chơi giữa mùa trăng… và chết như trăng. Không gian dày đặc toàn trăng cả - Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng. Thơ là thế giới huyền ảo được chưng cất từ cõi thực bay lên. Lệ Thu cũng sống giữa vầng trăng huyền ảo, Nhờ trăng đi thăm mẹ em, đếm trăng Năm mảnh trăng, Trăng bệnhTrăng xanh mét như người đau mới khỏi… Chơi với trăng, Tắm trăngĐêm ấy vầng trăng trong sáng lắm - Chị cười trăng nhuộm ướt vành môi… Đêm nay em đứng dưới trăng thanh - Trăng ướp người em ướp lá cành… Em đứng im đây đã mấy giờ - Tư thế tràn ngập ánh trăng mơ.

Hàn Mặc Tử là sự tích hợp kỳ lạ ở cuộc đời vừa bình thường vừa dị biệt nên thường đầy vẻ kỳ bí, đứt đoạn, ngoài trường liên tưởng quen thuộc. Cũng là Say trăng, tắm trăng, nhả ra thơ, nhưng nhiệm mầu ảo hóa đến ghê người. Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy - Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra. Hàn Lệ Thu từng có một tuổi thơ trong trẻo trong vòng tay ấm gia đình, thơ có nét giản dị, cụ thể, cảm tính, nữ tính… hơn. Thật giản dị đến kỳ diệu ở mắt nhìn thơ trẻ trong trò chơi đếm trăng cùng mẹ. Hai vầng trong mắt mẹ - Một mảnh ở trên trời… Hai mảnh đọng mắt em - Như vậy đúng năm trăng… Trăng của Hàn mang sắc thái lạ lùng Một miệng trăng thu về Cả miệng ta trăng là trăng… rồi Ta nhả ra đây một nàng. Còn Lệ Thu vũ trụ thu về trong mắt Mẹ và Em. Khắp bầu trời thế giới - Có đến năm cô Hằng. Cả hai đều từ cổ điển Đường luật, nhưng Hàn đã vượt bờ lãng mạn sang siêu thực tượng trưng, nữ sĩ Lệ Thu căn bản vẫn là âm hưởng lãng mạn gần gũi với Gái quê của Hàn.

Cả hai đều rơi vào vòng xoáy khốc liệt của thảm kịch số phận, trăng trở thành nỗi ám ảnh đau thương tan vỡ. Với Hàn, đủ cung điệu tột cùng đớn đau trăng ngã ngửa, trăng choáng váng, trăng tan tành, trăng vỡ đọng vàng khô… Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ - Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu. Nỗi đau định mệnh, cào xé thân thể ở nữ sĩ Lệ Thu. Còn em ngủ giữa trăng sao - Vi trùng canh gác thét gào bốn bên. Ấy là Trăng bệnh - Trăng xanh mét như người đau mới khỏi. Hàn Rượt trăngĐố trăng trăng chạy đằng trời - Tôi rú một tiếng trăng rơi tức thì. Lệ Thu cũng có lúc xua trăng. Trăng hỡi trăng! Em van trăng đừng sáng - Cho lòng em tê điếng trọn đêm nay… Đừng hôn lên vành môi sầu vạn kỷ - Trăng về đi! Trả lại bóng hoàng hôn. Nhưng rồi, níu trăng Đừng bỏ em quằn quại vũng cô liêu! Ấy là mối duyên “trời đày” giữa Trăng và thơ. Hàn thi sĩ tự ý thức trong vô thức nghiệp thơ. Té ra ta vốn là thi sĩ - Khao khát trăng gió mà không hay. Trong hố thẳm đau tuyệt vọng tột cùng cũng chính là đỉnh cao hạnh phúc dâng hiến khát vọng tột cùng với lời van lơn thầm nguyện. Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối - Xin tha thứ cho câu thơ tội lỗi - Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng - Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng. Hàn với sao sương anh nằm chết như trăng… trong ước nguyện sống mãi với trăng sao gấm vóc. Nữ sĩ Lệ Thu cũng gửi gắm niềm mơ ước ấy trong thơ, ấm tình giản dị. Vâng xác Thu tan rã - Nhưng hồn Thu hiển linh - Hóa gió khóc nhân tình - Làm trăng cài mái rạ.

Tín đồ Nguyễn Trọng Trí - Thu Cúc đều tìm lối thoát trong sự cứu rỗi của tôn giáo - tôn giáo Con Người và thăng hoa bay lên ở nhà nghệ sĩ phóng túng hào hoa nặng tình mộng mơ theo kiểu tư duy tôn giáo… Mỗi người tạo ra một thế giới mới cho riêng mình, vầng trăng như một nhân chứng, một biểu tượng tổng hòa được cả vẻ đẹp Khải Huyền Công giáo, Cực Lạc Phật giáo, và cả Chốn nước non thanh tú vừa đượm màu Thần tiên Đạo giáo vừa dân gian đời thường thanh sạch trinh nguyên của Đức tin thi sĩ Say thơ. Tôi là kẻ đi đường đêm gió lạnh - Không mong gì hơn kêu gọi tấm lòng thơ. Thơ là điểm tựa, vịn câu thơ đứng dậy ở bàn tay lạnh co trống vắng với lên trăng. Thơ là Kinh nhật tụng ước mơ nguyện cầu. “Thơ, đó là tiếng hát ở bên trong” (A.Lamartine) có vẻ bất bình thường mà rất đỗi thành thực. Khát vọng hạnh phúc bẩm sinh chính là nền tảng đạo đức làm Người.

3. Hàn nguyệt lạnh vọng ấm tinh cầu

Sinh thời, hai mảnh trăng thi sĩ vốn lạnh lắm. Thơ Hàn, càng đi xa càng ớn lạnh. Lạnh cả trong bơ vơ lời tự nguyện. Bây giờ tôi dại tôi điên - Chắp tay tôi lạy cả miền không gian. Giọt Lệ Thu lạnh trong Thu đã chết, chìm sâu trong tận cùng tuyệt vọng, ngỡ như mình là Người trong mồ. Trong mê lộ mê cung, trốn sâu tận cùng hay loay hoay đào thoát, liệu trăng nào len chiếu những ẩn khuất vô cùng.

Quy Nhơn phố gầy biển ngập nắng tràn trăng. Phố như bàn tay nhỏ - Vòng tay ôm biển xanh (Hạ Vũ). Ấy là ấm lên từ cái lạnh, đầy lên trong cái trống, rộng ra trong cái chật… nhờ những tấm lòng lấp lánh tình thương. Giọt Lệ Thu nhận ra Hàn. Thì ra anh cũng là thi sĩ - Đi tắm hoàng hôn lạc đến đây - Mi ướt long lanh tràn ngập ý - Đường đời đã gặp lắm chua cay. Kết thúc Biển chiều, họ nhận ra nhau, ta nhận ra mình trong hạt cát neo đậu kiếp người. Mở túi thơ ra: tìm vị đắng! - Bày thơ trên cát: nếm đau thương! Cảm thông sóng nhạc như trầm lắng - Đêm phủ từ từ chốn viễn phương.

Vậy là tiếng thơ của hai điệu hồn Hàn đã “vượt được đèo bay ra ngoài bao la dịu vợi” (Ai có về Quy Nhơn - Trần Đình Thái) để đến với rất nhiều trái tim người yêu thơ. Này chốn viễn phương, này tấc cố hương, này người chủ nhà, này khách đường xa, này mơ này thực, này người hôm qua, này người hôm nay, này người mai hậu… về đây, xem trăng có biến hình đổi dạng thay màu. Về gối đầu lên trăng, kéo sóng làm chăn, có nghe giọt sương trăng rơi đóa quỳnh đêm sáng vầng trăng ngược hướng lên từ Đất. Đêm sâu lắng! cổ thi thơm từng chữ… Ôi quỳnh hoa! sao em nhẹ gót hài? - Xiêm y trắng như linh hồn trinh nữ - Đông bàng hoàng say ảo giác liêu trai…

Như một vệt thiên di, từ Trăng vàng trăng ngọc Hàn thi sĩ (Tập 1), đến lần chuỗi ngọc trăng Hàn Lệ Thu. Tài sản con có gì đem đổi ngọc? - Để mà mua được Ngọc Quý Nước Trời?! (áp chót Tập 2)… Và mãi miên man nở đêm vàng ở cuối thế hệ 8x - áp chót tập cuối Thần nhạc sáng hơn trăng. Trong mùa thương khó, cô đơn cùng vĩnh hằng, Gia tài trắng hiến dâng. Con e ấp, ngại ngùng xòe bàn tay trắng - Trắng giấc mơ, trắng cả lối đi về (Kim Dạ).

L.T.H
(TCSH338/04-2017)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.