Vạn xuân mà như ngày đầu tiên

10:21 08/02/2010
NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)

Ảnh: giaoduc.edu.vn

Đọc tập thơ “Ngày đầu tiên” cùa nhà thơ Trần Hữu Lục, tôi có cảm giác đây là tập thơ đầu xuân anh muốn dâng tặng cho đời như lòng tri ân cuộc đời. Trần Hữu Lục đã cho chào đời 4 tập thơ. Dù thiên hướng sáng tác của anh nghiêng về văn hơn. Tập thơ có 55 bài là tiếng hát ngân nga giai điệu về Tổ Quốc, quê hương xứ sở và tình yêu đắm say của nhà thơ đa đoan luôn khát khao tìm tòi, sáng tạo. Bước chân tha hương của anh đi đến đâu là anh nhập cuộc và nhả ra sợi tơ lòng tha thiết như không cưỡng lại được. Mỗi bài một vẻ, một sắc thái riêng. Tất cả thấm đẫm tình yêu đắm say, nồng nàn tha thiết của tâm hồn người con xứ Huế. 

Bài “Con gà đất tuổi thơ” gợi nhớ miền ký ức thuở niên thiếu, trong trẻo mà lung linh - một kỷ niệm khó quên “Đêm cuối năm con gà đất tuổi thơ/. Le te gọi tôi về miền ký ức”. Đắm nhưng không chìm, anh làm chủ ngòi bút, trở về với hiện tại. “Đón giao thừa khoảnh khắc thiêng liêng/. Giọng quen thân “phôn” từ ngoài biên giới”... Lời thơ giản dị, anh khéo kết nối với người xa quê, tạo không gian rộng trong phút thiêng liêng của năm mới.

Đào Nhật Tân nở hồng phố Sài Gòn
Giây phút tinh khôi đầm ấm hạnh phúc


Một phác họa đẹp năm mới. “Chúc tết qua cầu truyền hình trực tiếp/. Giọng Hà Nội cùng giọng Huế, Sài Gòn...” không khí đất nước vào xuân thống nhất, yên bình thời mở cửa “ôn cố tri tân”, trọn tình vẹn nghĩa là cách nhìn đẹp của nhà thơ có tâm huyết với đời... Bước chân Trần Hữu Lục tiếp tục “tha hương” đến cực đất nước. Anh cảm thấy như ngày đầu tiên đi mở cõi, nơi đây “Mênh mang sóng vỗ đêm ngày/. Xứ sở ken đầy rừng tràm đước/. Lối về những con tàu không số/. Trong bão lửa tạc nên hình dáng”. Anh lại liên tưởng, chìm trong ký ức một thời oanh liệt đã qua. Ngôn ngữ thơ giản dị mà chất chứa bao suy tư trăn trở. Bài thơ in dấu ấn Nam Bộ “Ai neo lại dạ cổ hoài lang”... “Nơi tôi đứng gió đằm vị mặn. Vạn xuân mà như ngày đầu tiên”. Thời gian trôi qua mà Trần Hữu Lục vẫn có cảm giác như ngày đầu tiên chứng tỏ tình anh sâu nặng đến dường nào...

Đọc những bài thơ khác, tôi cảm nhận tiếng lòng anh lúc nào cũng dào dạt đắm say. Có nhiều bài thơ hay với phát hiện rất đời mà đẹp... Một bến phà đêm cũng có bài thơ hay “Dòng sông đêm lấp loáng ánh đèn.../ Bến sông này áo trắng thôi bay...” Câu “Mỹ Tho có phôi pha lời hẹn/. Bến đợi sông chờ cá quẫy trăng” Tuyệt. Câu thơ thao thiết, đẹp lung linh, sinh động gợi bao nỗi niềm trắc ẩn mà đẹp như ánh trăng. “Đá chìm” là bài thơ chứa chất suy tưởng khi anh đến Hàm Tân, một miền biển có nhiều đá chìm rất đẹp... “Thủy triều xuống nằm phơi đá chìm/. Cát tinh khôi ngàn năm còn thức.../ Đá lăn lóc ai gọi đá chìm”. Mạch thơ cứ tuôn theo cảm xúc mênh mang. Cuối cùng Trần Hữu Lục cũng hạ câu thơ rất đặc sắc “Đá chìm đâu biết lòng tôi khát/. Biển xa gọi một thoáng Sài Gòn” Câu thơ ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa. Tài hoa của tác giả là biết đan lồng sự đổi thay dưới tiếng hát trữ tình làm cho tứ thơ hấp dẫn, cuốn hút...

Trở lại Thăng Long, anh tìm một góc phố xưa lặng lẽ quan sát mà có một bài thơ độc đáo, rất riêng, một phát hiện rất Trần Hữu Lục. Cảm xúc anh và em là thế mạnh của nhà thơ nam giới làm cho tứ thơ cuốn hút trữ tình hơn “Sâm cầm lẻ loi bay về xứ/. Gam trời xanh mơ màu áo em/. Liễu ven hồ đa đoan chiều nhớ/. Mây tím chợt ùa chật kín hồn”. Ý thơ quen mà lạ. Tĩnh lặng mà xao xác... Anh lặng lẽ khiêm nhường, chọn một góc Hà Nội mà vẫn ca ngợi mảnh đất thơ mộng này. Bài thơ có cấu tứ theo hai vế, hình ảnh mở, không gian làm nền rất Hà Nội chuyển tải tâm trạng “Hoàng hôn nơi này chỉ có một/. Lặng lẽ phố xưa, lặng lẽ tôi!”. Bức tranh thiên nhiên thoát thành bức tranh tâm trạng. Dưới cái nhìn của thi sĩ, vẻ đẹp Hà Nội chứa cảm xúc đa chiều tạo cảm hứng cho người nghệ sỹ tung tẩy ngòi bút của mình. Câu thơ buồn man mác mà đẹp lạ lùng, rất ấn tượng. Tinh tế ở chỗ anh không tả cảnh trực tiếp phố xưa mà vẫn gợi ra không gian phố xưa gắn với tâm trạng cô đơn chạnh lòng...

Trong tập thơ có nhiều bài viết về Huế khá hay, nơi chắp cánh cho hồn thơ anh bay bổng “Tôi tìm về chốn cũ/. Cồn xanh cát trắng gió chuyển mùa... /Sông ơi thương lắm sắc màu tím nhớ” màu đặc trưng xứ Huế vẫn sống trong anh... Những bài viết về tình yêu, Trần Hữu Lục có những thành công đáng kể. Tình yêu quê hương, gia đình bạn bè đằm thắm thủy chung nhưng tình yêu lứa đôi là mảnh đất cho anh và nhiều nhà thơ cất tiếng hát theo nhịp đập trái tim. “Giá như” là bài hay. Tình anh lỡ hẹn lung linh trong cõi mơ miền ước “giá như” dàn trải suốt bảy cặp thơ khắc sâu sự tiếc nuối nhớ nhung vời vợi. Câu kết đắc địa “Ôi sông Hương ngoài biên giới/. Anh hoài mong chuyến đò ngang”. Trong “Miền ký ức”, anh khẳng định táo bạo một điều như không tưởng mà đậm tính nhân văn “Dẫu biết không là quá muộn. Tình yêu có trễ bao giờ?”. Nổi bật trong Ngày đầu tiên là tình quê hương Đất nước. Đỉnh cao tỏa sáng là bài Vạn xuân. Bài thơ là bản giao hưởng với nhiều cung bậc hoành tráng ca ngợi Tổ quốc ta từ thuở Vạn xuân... đẹp như bản anh hùng ca... Còn nhiều bài thơ hay khác và nhiều câu thơ xuất thần sẽ sống mãi trong lòng người đọc. 

Ngày đầu tiên là tập thơ có giá trị, nội dung phong phú đa dạng. Tác giả có nhiều suy tư trăn trở, mạnh dạn tìm cái mới, khai thác đề tài phong phú, hình thức vừa có tính truyền thống nhưng phóng khoáng hơn. Tuy nhiên tác phẩm chưa phải là viên ngọc toàn bích, cũng còn vài chỗ gượng ép, thiếu tự nhiên trong dùng từ ngữ. Điều quý nhất là đã có ánh kim cương lấp lánh. Tôi trân trọng tấm lòng nhà thơ với đời, anh không chạy theo thị hiếu của một số người chỉ khai thác tình yêu, và tình yêu não nề.  Hoặc né tránh. . .

N.T.K.T

(252/02-2010)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Tháng 9 vừa qua, tại Huế, người cháu ruột gọi Bà Hoàng Thị Kim Cúc bằng Cô là Hoàng Thị Quỳnh Hoa đã xuất bản và giới thiệu cuốn “LÁ TRÚC CHE NGANG - CHUYỆN TÌNH CỦA CÔ TÔI”. Cuốn sách đã trưng dẫn ra nhiều tư liệu trung thực về sự thật chuyện tình giữa Hàn Mặc tử và Hoàng Thị Kim Cúc mà lâu nay trên văn đàn có nhiều thêu dệt khác nhau.

  • Họ tên: Dương Thị Khánh
    Năm sinh: 1944
    Quê quán: Thừa Thiên Huế
    Hiện ở: 71 đường 3 tháng 2, thành phố Đà Lạt

  • HỒ LIỄU

    Trần Thị NgH [bút danh khác là Thọ Diên] tên thật là Trần Thị Nguyệt Hồng, sinh 18/4/1949 tại An Xuyên, Cà Mau. Năm mười tuổi bắt đầu đọc thơ. Bắt đầu viết văn từ năm 1968.

  • LTS: Nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất của thi sĩ Bùi Giáng (17/12/1926 - 7/10/1998), sáng 14/9 tại Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM đã diễn ra buổi tọa đàm khoa học, thu hút 25 tham luận của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và khoảng 400 người đến dự.

  • CHINGHIZ AIMATỐP

    Dưới đây cuộc trao đổi ý kiến giữa Irina Risina, phóng viên báo Litêraturnaia Gazeta với nhà văn Ch. Aimatốp ít lâu sau Đại hội lần thứ 8 của các nhà văn Liên Xô.

  • BÙI VIỆT THẮNG 

    (Đọc Thuyền trăng - Tập thơ của Hồ Thế Hà, Nxb. Văn học, 2013)

  • TRẦN THÙY MAI

    Tôi biết chị Võ Ngọc Lan từ khi còn làm việc ở Nxb. Thuận Hóa, lúc đó tôi được giao biên tập cuốn Niệm khúc cho mưa Huế của chị.

  • YẾN THANH

    Năm nào đó, hình như tôi đã trồng ở đây một cây ưu tình, cây đã ra hoa lẫn vào màu xanh ngõ vắng, và đã dẫn tôi đến một miền trắng xóa như một giấc mơ đổ vỡ bên trời.
    (Ngõ Huế - Hạ Nguyên)

  • TRUNG SƠN

    100 NĂM NGÀY SINH BÁC SĨ NGUYỄN KHẮC VIỆN (1913 - 2013)

  • Các tạp chí văn nghệ ở các địa phương trong những năm qua đã đóng góp rất nhiều vào dòng chảy văn học Việt Nam. Đó là nơi góp sức hình thành tên tuổi của nhiều tác giả, tác phẩm từ các địa phương trước khi soi vào gương mặt chung của nền văn học nước nhà, là nơi giữ gìn bản sắc văn hóa văn nghệ của mỗi vùng đất, là nơi khởi thủy của những khuynh hướng sáng tạo mới...

  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • THÁI KIM LAN

    Đầu năm 1999, nhà Văn hóa Thế giới ở Berlin gửi xuống Muenchen cho tôi ngót chục bài thơ, nhờ chuyển ngữ sang tiếng Đức cho tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Berlin vào cuối tháng 3 năm ấy. Như thường lệ không đắn đo, tôi sốt sắng nhận lời.

  • LÊ MINH PHONG

    Đừng đặt tên cho họ…
    Có thể họ còn vô vàn những cuộc phiêu lưu khác nữa.

                               (Robbe - Grillet)

  • PHAN TRẦN THANH TÚ

    “Chính anh là người đã nhẫn tâm với bản thân mình khi tôn thờ chỉ có một điều duy nhất” (Đoản khúc số 97)

  • KỶ NIỆM 123 NĂM NGÀY SINH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

    TRẦN HIẾU ĐỨC

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG 

    Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.

  • THỤY KHỞI

    Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.

  • Hoàng Minh Tường

    Nhà văn, nhà báo Lê Khắc Hoan xuất hiện và gây ấn tượng trên văn đàn khá sớm: Năm 1959, khi đang là giáo viên trường Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Lê Khắc Hoan đã có truyện ngắn đầu tay Đôi rắn thần trong hang Pa Kham đoạt giải Khuyến khích báo Thống Nhất (Nguyễn Quang Sáng giải Nhất với truyện ngắn Ông Năm Hạng).

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Khi thơ như một tấm gương phản chiếu tâm hồn của tác giả, phản ánh nhận thức của người sáng tạo với cuộc sống quanh mình, chiếc bóng trong tấm gương ấy là một phần của sự thật. Đôi khi sự thật cũng chưa được diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn ngữ của nhà thơ.